Dân miền Trung, ai cũng nơm nớp và thuộc lòng “Ông tha mà bà không tha/ Làm thêm trận lụt hăm ba tháng mười”. Theo lịch, 23/10 âm lịch rơi vào ngày 12/12/2025.
Không như lo lắng, vẫn mưa nhưng không lớn. Trận lụt “bà thêm” đã không xảy ra. Nhưng nguyên nhân ám ảnh - trận lũ 19/11, cách đây đúng 1 tháng - thì vẫn còn chưa dứt.
BOM NƯỚC
Hồ thủy điện sông Ba Hạ chỉ là công trình cuối cùng của cả một hệ thống thủy điện – thủy lợi trên sông Ba, chảy từ Kon Tum xuống. Nó không phải là hồ lớn, chỉ 394,70 triệu m3, so với hồ thủy lợi Sông Cái Ninh Thuận, loại trung bình, là 270 triệu m3. Nhưng hồ sông Ba Hạ lại là trạm cuối nhận nước đổ về từ một lưu vực rất dài.
Sông Ba bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Rô, Kon Tum chảy qua 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Phú Yên trước khi đổ ra Biển Đông ở cửa biển Đà Diễn (Tuy Hòa) có tổng chiều dài khoảng 388 km (tính theo đường dòng chảy). Hồ sông Ba Hạ cách cửa biển Tuy Hòa chỉ khoảng 45 km đường chim bay hoặc 60 km nếu tính theo đường dòng chảy. Thử hình dung, hồ sông Ba Hạ nhỏ như thế nhưng phải nhận phần lớn lượng nước mưa (gần 80 %) trên diện tích khoảng hơn 11.500 km2 của cả lưu vực sông Ba là 13.900 km . Để so sánh: diện tích của toàn tỉnh Ninh Thuận (cũ) là 3.358 km².
Hình dung thứ hai, hồ sông Ba Hạ giống như một cái thau 20 lít, nhưng xếp chồng trên nó theo bậc thang là hệ thống khoảng 30 xô, chậu lớn nhỏ, có cái dung tích tương đương. Tổng dung tích tích nước tối đa của hệ thống hồ chứa này là vào khoảng 1,5 tỉ m3 nước. Trong khi đó, mưa lớn kéo dài hai đợt, đợt sau suốt 3 ngày, tổng dung tích nước của toàn bộ lưu vực sông Ba sẽ là khoảng 2,5 tỉ m3.
Ngập lụt là chắc chắn, khi mà trước đó, hệ thống hồ đã tích nước đạt gần 100 %. Nếu tất cả các hồ xả đón lũ trước, hạ mức chứa tất cả các hồ xuống còn 70 %, tối đa các hồ cũng chỉ nhận thêm được khoảng 500 triệu m3 nước. Khả năng cắt lũ cho đồng bằng hạ du là hầu như không có.
Tên công trình /Cao trình MNDBT* (m)/Mực nước chết (m)/Dung tích toàn bộ (triệu m3)/Dung tích hữu ích (triệu m3)
An Khê: 406,5 /404,5 /15,9 5,6
Ka Nak: 515,0 /485,0 /313,7 /285,5
Krông H’năng: 255,0 /243,0 /175,7 /114,6
Sông Hinh: 209,0 /196,0 357,0 /323,0
Sông Ba Hạ: 105,0 /101,0 /394,7 /165,9
Khi các “xô chậu” kia đầy, toàn bộ lượng nước xả tràn đều đổ xuống cái chậu 20 lít ấy, tức hồ sông Ba Hạ. Trước đỉnh lũ 19/11/2025, rộng khắp trên vùng “xô chậu” 11.500 m2 này, mưa lớn đã kéo dài hơn một tuần liền. Tất cả các hồ lớn nhỏ trên sông Ba Hạ đều đã đầy, không giữ lại thêm nước được nữa (thuật ngữ là không thể tham gia cắt lũ cho đồng bằng). Bản thân hồ Sông Ba Hạ cũng đã đầy gần 100 %, trong khi liên tục phải nhận thêm lượng nước xả tràn từ hệ thống hồ ở tam cấp phía trên.
Khoảng 80 % của gần 2 tỉ m3 nước sẽ phải tràn qua hồ sông Ba Hạ trong khoảng thời gian 48 - 72 giờ để đổ xuống hạ du. Nếu lượng nước về hồ vượt cao trình thì sẽ tràn, công trình thủy điện sẽ bị xóa sổ. Nguy hơn, đập có thể bị phá vỡ. Toàn bộ lượng nước hồ 394,7 triệu m3 cộng thêm tất cả lượng nước đang tiếp tục về hồ sẽ đổ ụp từ độ cao 105 -108 m xuống đồng bằng. Lúc đó sẽ là đại thảm họa.
Do đó, khi hồ đã đầy, nước về thêm bao nhiêu thì phải xả bấy nhiêu. Trong đêm 19/11, nước về hồ tăng dần, rất nhanh, lên đến > 16.300 m3/s, nên buộc phải xả lũ mức đỉnh 16.100 m3/s để tránh vỡ đập.
Tổng kết diễn biến lưu lượng xả:
Thời điểm /Lưu lượng xả về hạ du (m3/s) /Ghi chú
Chiều 18/11: ~ 5.500 / Bắt đầu điều tiết
Sáng 19/11: ~ 11.000 /Nước về tăng nhanh
Chiều 19/11: (Đỉnh) 16.100 /Mức kỷ lục lịch sử
Sáng 20/11: ~ 13.000 /Bắt đầu giảm dần
Đây là bắt buộc, là lập luận “đúng quy trình” mà chúng ta vẫn nghe.
VÌ SAO NÊN NỖI...
Lỗi thứ nhất là thủy điện vừa và nhỏ không thiết kế công năng cắt lũ, hoặc có thì dung tích cắt lũ rất nhỏ. Hồ sông Ba Hạ chỉ thuần túy để sản xuất điện, không được thiết kế công năng điều tiết lũ, không có dung tích dự phòng. Nếu thiết kế thêm công năng đó, ví dụ như nâng dung tích cắt lũ lên 500 triệu m3 thì ngay cả khi mưa to nhiều ngày, diện rộng, hồ cũng có thể giữ lại được thêm 1,5 tỉ khối nước, giảm mức xả, lũ sẽ nhẹ hơn nhiều. Nhưng nếu làm thế, diện tích hồ phải rộng hơn nhiều, cao trình đập tràn sẽ phải nâng cao hơn, vốn đầu tư công trình sẽ tăng rất cao, thu hồi vốn chậm, chậm sinh lãi. Mà đây là đầu tư, tư nhân chiếm 38 %. Vì tính toán lợi nhuận, nhà đầu tư sẽ không làm và cũng không đủ sức làm.
Ngược lại, các đại thủy điện như hồ Hòa Bình, Hồ Sơn La, nhà nước xây dựng (công trình quốc gia) thì chức năng điều tiết khá tốt. Có thể so sánh chi tiết:
Thủy điện Hòa Bình:
Đây là công trình ở bậc thang dưới, đóng vai trò trực tiếp nhất trong việc bảo vệ Hà Nội và đồng bằng sông Hồng. Dung tích toàn bộ hồ: Khoảng 9,45 tỉ m3. Dung tích phòng lũ: Khoảng 5,6 tỉ m3. Đây là khoảng không gian trống được duy trì trong hồ để sẵn sàng hứng nước khi có lũ lớn đổ về, giúp giảm lưu lượng nước xả xuống hạ lưu. Mực nước dâng bình thường là 117 m, mực nước chết là 80 m. Mực nước lớn nhất thiết kế (Mực nước gia cường): 120 m. Trong các tình huống lũ cực đoan, hồ có thể được phép dâng lên mức này để tận dụng thêm dung tích cắt lũ cho hạ du, nhưng phải đảm bảo tuyệt đối an toàn cho công trình. Khi có lũ, hồ có thể dâng cao hơn mức bình thường để tích nước.
Thủy điện Sơn La:
Nằm ở bậc thang trên, Thủy điện Sơn La giúp điều tiết nước trước khi chảy về hồ Hòa Bình, tạo ra một "lá chắn" kép. Dung tích toàn bộ hồ: Khoảng 9,26 tỉ m3. Dung tích phòng lũ: Khoảng 7 tỉ m3. Nhờ dung tích lớn và nằm ở thượng nguồn, Sơn La đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc "cắt" những đỉnh lũ cực lớn trước khi chúng chạm đến Hòa Bình. Mực nước: Mực nước dâng bình thường là 215m, mực nước chết là 175 m. Mực nước lớn nhất thiết kế (P=0,01%): 217,83 m. Đây là mức nước tối đa hồ có thể chịu đựng trong kịch bản lũ 10.000 năm có một trận. Mực nước kiểm tra (PMF - lũ cực hạn): 228,07 m.
Trong khi đó, hồ thủy điện sông Ba Hạ chỉ có các thông số: Mức vận hành bình thường/đón lũ: 102 m. Khi có lũ lớn: Mực đạt đỉnh 105m (hoặc cao hơn, cực đại khoảng 108m). Ở mực nước đó, tối đa hồ chỉ giữ lại được 93 triệu m3 nước, bằng khoảng 7-10 % lượng nước về hồ và sau đó buộc phải xả lũ để đảm bảo an toàn cho công trình.
Lỗi thứ hai: Là lỗi dự báo. Lẽ ra, thủy điện phải có đủ dự báo dài hạn trước về chuyện mưa lớn kéo dài từ 15/11 về sau. Như vậy, trước 15/11, lẽ ra họ phải xả nước. Ví dụ để dự phòng, xả chỉ còn 200 triệu m3 nước trong hồ, thì khi mưa lớn sau đó, hồ sẽ đủ sức nhận thêm 150 -200 triệu m3, giúp sau đó xả chậm, lũ sẽ không ồ ạt. Mưa nhiều thì chỉ gây lụt. Nhưng nhà đầu tư thường trực nỗi lo: Lỡ xả rồi không còn tiếp tục mưa, hoặc mưa không đủ thì năm 2026 sẽ không đủ nước phát điện. Dung tích hữu ích để sinh ra điện của hồ sông Ba Hạ chỉ là 165 triệu m3/394,7 triệu m3. Thời điểm này đã là cuối mùa mưa. Vì thế, nhà đầu cho tích nước lên 97 - 99% dung tích ngay thời điểm cận kề đợt mưa kỷ lục. Điều này nằm trong quy trình đã được duyệt. Ưu tiên dự phòng tích nước phát điện thì nỗi trăn trở chuyện dự phòng cắt lũ bị xem nhẹ.
Lỗi thứ ba: Độ chênh vận hành và quản lý. Nên nhớ rằng, việc điều tiết mực nước hồ là hoàn toàn do nhà máy (tư nhân/công tư hợp doanh) quyết định, trong khi cùng và giúp dân phòng chống bão lũ là việc của chính quyền. Chủ tịch tỉnh không có quyền yêu cầu xả, ngưng xả, xả bao nhiêu. Trước khi xả, chủ đầu tư chỉ thông báo cho chính quyền chứ không phải xin và chờ phê duyệt. Còn xả bao nhiêu, như đã nói, là tùy…thời tiết! Luật quy định thế, làm đúng quy trình thì không bị coi là sai, khó truy cứu trách nhiệm hình sự. Muốn, phải sửa luật.
Tình trạng này không xảy ra với các hồ/ công trình thủy điện quốc gia. Khi kết hợp cả hệ thống hồ chứa thủy điện Sơn La và Hòa Bình với các hồ chứa trên lưu vực sông Hồng (bao gồm cả Tuyên Quang, Lai Châu, Thác Bà...), tổng dung tích phòng lũ của liên hồ thường được duy trì ở mức khoảng 15 tỉ m3. Trong đó, hồ sông Gâm (Tuyên Quang) chỉ chiếm 1 tỉ m3; hồ Thác Bà - Sông Chảy chỉ giúp cắt lũ 450 triệu m3.
Trong thực tế vận hành, các con số này sẽ thay đổi linh hoạt theo từng thời điểm của mùa lũ (lũ sớm, lũ chính vụ, lũ muộn) dựa trên Quy trình vận hành liên hồ chứa do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Do dung tích cắt lũ lớn nên từ hàng chục năm nay, mọi cơn lũ đều dừng lại ở khu vực hồ Hòa Bình, khu vực Hà Nội sẽ được bảo đảm an toàn. Các đợt lũ vừa qua ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang chỉ là lũ do thời tiết cực đoan, do nước ở các sông cục bộ không qua hệ thống liên hồ chứa thủy điện nói trên gây ra, cũng hoàn toàn không do “Trung Quốc xả lũ” như dư luận..
Lỗi thứ tư: Chủ quan trước yếu tố thiên tai cực đoan. Lỗi này thì cả chính quyền lẫn nhân dân đều mắc. Đêm 16 và ngày 17, mưa đạt đỉnh (886 mm/24h), ngập sâu, nhưng không gây thiệt hại nhân mạng. Xả lũ của hồ sông Ba Hạ đợt đó chỉ từ 3.400 -5.600 m3/s. Do đó, chiều 19/11, khi được báo là mưa lớn, sẽ tăng xả, chính quyền và nhân dân (vừa dọn dẹp xong trận lũ trước) nghĩ rằng cùng lắm thì cũng y như haingày trước. Do đó đằng nào cũng ngập rồi, tâm lý chung là chờ xong đợt, nước rút thì dọn luôn. Một số bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, thông tin xả lũ thậm chí chưa đến kịp, đến đủ. Hơn nữa, người dân chủ yếu phòng trôi tài sản, không đánh giá đúng mức với việc phòng….tính mạng.
Đêm 19/11, mức xả lũ ồ ạt, từ 11.000 đến 16.100 m3/s chỉ trong vòng 4h. Không ai đỡ kịp. Đoạn từ sông Ba Hạ xuống hạ du ngắn, xả mạnh chỉ mất 3-4 h là nước đã ngập sâu từ 1-3 m. Hơn thế nữa, vì mưa ngập trên diện rộng (Ninh Thuận đến Bình Định và toàn Tây Nguyên) nên khi nước dâng, muốn chạy thì không biết chạy đâu. Có nơi vùng rốn lũ, nước tăng 2- 3 m chỉ trong vòng 2 giờ, sau nửa đêm. Nhưng trước đó, khi được thông báo, bà con vẫn bình chân như vại, hầu như không có động thái chuẩn bị thích hợp. Khi nghe tăng mức xả lũ mới chạy thì không kịp nữa, không còn chỗ chạy.
Chủ trương ứng cứu tại chỗ là đúng. Chính quyền, công an, quân đội, ban ngành địa phương cũng đã làm hết sức, làm rất tốt. Nhưng chủ trương đó chỉ phát huy tác dụng với việc mưa lũ cục bộ. Còn lần này, mưa quá kinh hoàng. Ninh Thuận bị nhẹ nhất, nhưng lượng mưa trong trong 3 ngày cũng đã gấp đôi lượng mưa trung bình của tỉnh (khoảng trên 1.400 mm). Thêm vào đó, đúng mùng 1 âm lịch, đỉnh triều cường, lũ từ sông ra biển thoát chậm. Nhiều vùng, ca nô, phương tiện khác và con người đều không thể vào được để ứng cứu trong hơn 1 ngày rưỡi.
ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT
Lụt là do thời tiết cực đoan (mưa kỷ lục rộng khắp miền Trung và Tây Nguyên), còn lũ có phần là do thủy điện xả khẩn. Có 280 hồ thủy lợi và thủy điện lớn, nhỏ từ Kon Tum xuống Phú Yên đều đổ nước vào sông Ba. Phú Yên bị nặng là vì thế. Ninh Thuận chỉ có 25 hồ, xấp xỉ 500 triệu m3 nước, không có hồ thủy điện.
Hồ Nước ngọt Vĩnh Hải ở Ninh Thuận đêm 19/11 nước về hồ hơn 2000 m3/s nhưng chỉ xả qua tràn 481 khối/s (chưa bằng ¼). Hồ Đơn Dương 165 triệu m3, xả xuống sông Dinh (Ninh Thuận) chỉ cao nhất 600 m3/s… (Phần lớn, xả về hướng hệ thống sông La Ngà, sông Đồng Nai cao nhất 2000m3/s, gây ngập lụt khu vực Bình Thuận [cũ]). Các hồ khác chỉ xả 20 -100 m/s. Do đó, Ninh Thuận bị nhẹ nhất. Nhưng đồng bằng lưu vực sông Dinh (Ninh Thuận cũ) nhỏ, hẹp, độ dốc cao, sông ngắn nên như vậy cũng đủ tàn phá kinh hoàng.
Lũ lụt Phú Yên do sông Ba Hạ xả lũ chỉ là điển hình của một đại nạn kết hợp giữa thiên tai (thời tiết cực đoan) và nhân tai (quy trình khai thác thủy điện nhỏ và vừa). Cần nói rõ thêm, vì là chặng cuối tích thế năng, thủy điện sông Ba Hạ là thủy điện lớn có công suất Nlm =220 MW (các công trình công suất Nlm <100 MW mới thuộc loại nhỏ và vừa). Toàn miền Trung, nơi nào có thủy điện phát triển ồ ạt, nơi đó đại nguy cơ vẫn còn lơ lửng. Tỉnh Ninh Thuận (cũ) có 25 hồ thủy lợi, không có hồ thủy điện nào nên dù mưa lũ cực đoan, thiệt hại vẫn có phần nhẹ hơn đáng kể.
Với địa hình hẹp, độ dốc lớn, phát triển ồ ạt thủy điện nhỏ và vừa ở miền Trung là tội ác tiềm ẩn, vì không tham gia cắt lũ, không điều tiết được lượng nước về hạ du khi mưa lũ lớn. Ngược lại, nó tạo nên hàng trăm quả bom nước (hồ chứa) lơ lửng đe dọa đồng bằng duyên hải miền Trung. Chưa kể, làm thủy điện đồng nghĩa với phá rừng, gây trượt, sạt, lở đất, gây thảm họa kép, thảm họa chồng thảm họa. Thử hình dung đi, đang yên lành mà có một trận động đất đủ lớn ở phần thượng du!
Nên chăng:
a) Ngưng cấp phép thêm thủy điện nhỏ và vừa. Vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng, nhà nước cần xem xét các nguồn điện năng khác để thay thế.
b) Buộc nâng dung tích điều tiết (cắt lũ) tất cả các công trình thủy điện nhỏ và vừa lên ít nhất gấp rưỡi dung tích công năng có ích (phát điện) + dung tích không sinh lời. Nếu tiếp tục phát triển thủy điện thì nên tính đến loại bỏ tư duy tận thu công năng tối đa, để hồ chứa nâng dung tích điều tiết cắt lũ.
c) Kiểm soát lại hai quy trình dự báo và xả lũ. Không phó mặc cho nhà đầu tư và đơn vị vận hành, cần tăng cường kiểm soát nhà nước đối với quy trình xả lũ, kể cả xả lũ dự phòng lẫn xả lũ khẩn cấp. Việc thông báo chỉ diễn ra ngay trước khi nâng mức xả thì chính quyền và nhân dân không thể chuẩn bị và đối phó kịp. Chạy lũ, ít nhất cũng phải chạy từ 24 - 48 giờ trước khi xả lũ.
Trận lũ ở Phú Yên (phía Đông Đắk Lắk), việc xả lũ chỉ được thông báo nâng cấp tức thời, do xả thụ động nên đã gây thảm họa đau xót.
Để có thêm cái nhìn tòan cảnh, cần hình dung lại toàn bộ hệ thống bậc thang thủy điện sông Ba trên toàn hành trình dòng nước. Thời gian truyền lũ từ các hồ phía thượng nguồn Gia Lai về đến hồ Sông Ba Hạ ước tính dựa trên các kịch bản vận hành thông thường sẽ diễn ra như sau:
1. Từ cụm hồ An Khê - Ka Nak (Gia Lai) về Sông Ba Hạ.
Đây là quãng đường dài nhất trong hệ thống bậc thang:
• Khoảng cách: Khoảng 120 - 140 km (dọc theo đường sông).
• Thời gian truyền lũ bình thường: 15 – 18 giờ.
Khi có lũ lớn (dòng chảy xiết): 10 - 12 giờ
2. Từ hồ Ayun Pa về Sông Ba Hạ
Dòng sông Ayun hợp lưu với sông Ba tại khu vực thị xã Ayun Pa:
• Khoảng cách: Khoảng 80 - 90 km.
• Thời gian truyền lũ: 8 - 10 giờ
3. Từ hồ Krông H’Năng về Sông Ba Hạ
Hồ này nằm gần hơn và có độ dốc khá lớn:
• Khoảng cách: Khoảng 40 - 50 km.
• Thời gian truyền lũ: 3 - 5 giờ. Đây là nhánh sông cần đặc biệt lưu ý vì thời gian ứng phó rất ngắn.
4. Từ Thủy điện Sông Ba Hạ đến cửa biển Tuy Hòa
Đây là đoạn sông rộng nhất:
• Khoảng cách dòng chảy (đường sông): khoảng 60 km.
• Thời gian truyền lũ (khi xả mạnh: 4 - 6 giờ
Như đã phân tích, trận thiên tai kinh hoàng 19/11 vừa qua tại Phú Yên có liên quan trực tiếp với việc xả lũ đột ngột của Thủy điện Sông Ba Hạ. Lỗi chính của toàn bộ vấn nạn là thủy điện nhỏ và vừa mọc lên tràn lan khắp vùng thượng du miền Trung. Do không có dung tích cắt lũ, các công trình này trở thành những quả bom nước treo lơ lửng. Do đó, khi xả lũ đúng quy trình trong những đợt mưa lũ lớn, dù đúng quy trình nhưng ngay trong thiên tai thì dân hạ du cũng chết chắc!
Bài viết này không nhắm cáo buộc, quy lỗi với bất kỳ cá nhân, đơn vị hay tổ chức nào. Tôi chỉ muốn nêu ra để hình dung vấn đề một cách bao quát. Do không phải là người có chuyên môn sâu, được đào tạo đầy đủ về các lĩnh vực đang đề cập nên khó lòng tránh khỏi thiếu sót, thậm chí lỗi sai. Người viết mong được bạn đọc, nhất là giới chuyên môn khoa học chỉ giáo thêm để có thể sửa sai và hoàn thiện cái nhìn toàn cảnh.
Xin lắng nghe và cảm ơn trước!
NGUYỄN HỒNG LAM 19/12/2025

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.