Lê Đức Dục : Minh họa cho Huế những ngày này không gì hơn bài thơ của Tô Thùy Yên và tấm ảnh này
[Một mai, chắc mỗi điều duy nhất:
Rêu mốc mờ thêm những đã mờ]
HUẾ OÁN
Nửa khuya, vua trẻ lìa kinh khuyết
Từ đó, thâm cung lạnh lửa đèn
Lê Đức Dục : Minh họa cho Huế những ngày này không gì hơn bài thơ của Tô Thùy Yên và tấm ảnh này
[Một mai, chắc mỗi điều duy nhất:
Rêu mốc mờ thêm những đã mờ]
HUẾ OÁN
Nửa khuya, vua trẻ lìa kinh khuyết
Từ đó, thâm cung lạnh lửa đèn
3) Mưa Đỏ, ngọn lửa hư cấu thiêu cháy những giá trị cốt lõi kết nối đồng bào
Sau này đọc ông Chu Lai. Ông cũng thản nhiên tả lính Việt Nam Cộng Hòa tưới xăng lên chiến sĩ Bắc Việt và đốt sống trong cuộc chiến tám mươi mốt ngày đẫm máu giữa Quảng Trị ! Người ta hỏi về tính chân thực của đoạn tả đó, ông trả lời : Lịch sử sẽ nghiên cứu và trả lời !
Trời đất, ông viết về một đối tượng có thật, ảnh hưởng ghê gớm tới uy tín về nhân cách của người ta, mà khi được hỏi ông vòng vo né tránh ! Tôi nghĩ rằng, nếu không tận mắt nhìn cảnh ấy, ông không nên viết ra. Nhiều người lính ở cả hai bên từng tham chiến trận đó đã lên tiếng rằng điều ông tả là không thực, ông còn chờ lịch sử nào trả lời nữa đây ?
Không hiểu sao, ngày hôm nay hai ông bạn văn của tôi cách nhau nửa vòng trái đất, hầu như cùng lúc tung lên Facebook hai bài về hòa giải. Ông Nguyễn Danh Lam bên Mỹ viết : "Hòa giải : Trái bóng trong chân ai". Và Tạ Duy Anh, ở Hà Nội viết : "Khó như hòa giải".
Tôi đọc xong, chia sẻ về trang nhà để tối đọc lại. Hai ông văn nhân này, mỗi người một góc, nhưng đã viết đầy đủ, sâu sắc về cái sự hòa giải của người Việt với nhau. Tôi thấy quá đầy đủ, chẳng cần viết thêm gì nữa.
Có điều tối nay, sau khi đọc xong lần nữa bài của hai ông, tôi ngồi ngẫm ngợi. Và chợt nhớ đến nhà thơ Tô Thùy Yên và bài thơ bất hủ : Ta về của ông. Đây là bài thơ ông làm khi được tha về nhà từ trại cải tạo, mười năm tù đày đằng đẵng dành cho một nhà thơ, sĩ quan tâm lý chiến Việt Nam Cộng Hòa, sau 1975.
Bất giác thầm thì những câu gan ruột của thi sĩ Tô Thùy Yên mà thành tên gọi. “Ta về một bóng trên đường lớn”. Một đời làm thơ chỉ cần bài “Ta về” đã quá đủ thành núi này non nọ.
Hôm qua, thiên hạ lao xao chuyện người tù được thả, bị trả tự do thân thể (phải nói vậy cho chính xác, chứ không phải thả tự do như báo chí và công an thường dùng, bởi tự do của con người thì không ai có thể cầm tù, chỉ trói buộc được thân xác thôi) sau 15 năm 4 tháng 27 ngày trong ngục.
Người ấy là anh Trần Huỳnh Duy Thức.
Sáng nay bão các loại đồng loạt tan, gã và nhà thơ Hoàng Hưng ngồi café Chạm, Sài Gòn, một ông lão chìa vé số. Gã mua một tấm mà không chọn số. Ông lão chắc mỏi chân, ngồi ghế dưới bụi trúc hút thuốc.
Gã hỏi, ông bao tuổi rồi? Tôi sinh năm 1944. Quê ông ở đâu? Khánh Hòa. Thấy nhõn chiếc răng cửa hàm trên. Chao ôi không biết ông còn chiếc răng hàm nào để nhai không? Chợt nhìn xuống chân ông, một chân gỗ.
Bắt đầu vào chuyện.
Tôi rớt tú tài… hề hề, rớt tú tài anh đi trung sĩ, em ở nhà…
Tạ Duy Anh giới thiệu : Sau Tết nhà thơ Thanh Thảo gửi cho tôi bài này và nói thêm: "Đ. có báo nào nó dám in chú ạ, khốn nạn thế chứ". Tôi bảo ông : Thông cảm cho họ đi, để chú nó đăng.
Thơ Tô Thùy Yên lặng lẽ. Dù ông viết dài hay viết ngắn, thì thơ ấy vẫn lặng lẽ. Người đọc đồng cảm với thơ ấy, cũng trong lặng lẽ. Đó là thơ của Chim kêu bãi quạnh, hắt hiu và đau đớn:
“Cởi đôi giày vẹt, tấm áo tã
Xót xa như lột một lần da” (Chim kêu bãi quạnh)
(Để tưởng niệm anh – nhân dịp giỗ lần thứ ba của nhà thơ Tô Thùy Yên)
Một người dốt đặc về thơ phú như tôi mà lại từng được làm bạn và lạm bàn về thơ cùng với một nhà thơ nổi danh như Tô Thùy Yên thì đúng là chuyện lạ. Cho dù đó là chuyện ở trong tù.
Vì vậy, khi biết tin anh qua đời, một số bạn tù khuyên tôi nên viết một bài để tưởng niệm anh, nhưng tôi không dám. Vì thấy rất nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi bậc thầy đã viết về anh, hơn nữa tôi ngại người đời thường dị nghị chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ.” Hôm nay nhân ngày giỗ lần thứ ba của anh, theo truyền thống Việt Nam, là ngày chính thức mãn tang anh, tôi xin viết đôi điều để tưởng nhớ anh và nhắc lại vài kỷ niệm cùng anh trong tù.
Khi còn ngoài Bắc, có thời gian tôi đã từng ở chung trại tù với anh Đinh Thành Tiên (tên khai sanh của Tô Thùy Yên), nhưng khác đội, lúc ấy chưa biết nhiều về anh và cũng chưa có dịp thân quen anh.
Kể từ thời Hai Bà Trưng đến nay, chúng ta có gần hai ngàn năm hận thù với người Hán.
Kể từ 1858 đến nay, chúng ta có 163 năm căm ghét thực dân Pháp xâm lược.
Và kể từ 1955 đến nay, chúng ta có 66 năm lên án gót giày đế quốc Mỹ giày xéo quê hương.
![]() |
|
Thi sĩ Tô Thùy Yên và ca
khúc "Chiều trên phá Tam Giang" do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ từ
thơ của ông.
|
![]() |
|
Chân
dung thi sĩ Tô Thùy Yên. (Tranh của họa sĩ Đinh Cường)
|