I. DỮ KIỆN
1. Đã có những nghị quyết nào về "một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa"?
Dưới đây là các nghị quyết của Bộ Chính trị (BCT), Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) và Luật Giáo dục về “một chương trình – nhiều bộ sách giáo khoa” (SGK):
- Nghị quyết số 29-NQ/TW (04/11/2013) của BCHTƯ Đảng (khóa XI): “Thực hiện một chương trình giáo dục thống nhất, nhưng có nhiều sách giáo khoa; sách giáo khoa là tài liệu tham khảo, không phải pháp lệnh” [1].
- Kết luận số 51-KL/TW (30/5/2019) của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW, khẳng định không thay đổi chủ trương “một chương trình, nhiều sách giáo khoa” [2].
- Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (2021) về tiếp tục đổi mới giáo dục theo tinh thần NQ 29, phát triển chương trình, học liệu, SGK theo hướng đa dạng hóa, xã hội hóa có kiểm soát [3].
- Luật Giáo dục 2019 – Điều 32: “Chương trình giáo dục phổ thông thống nhất toàn quốc; sách giáo khoa do nhiều tổ chức, cá nhân biên soạn” [4].
- Kết luận số 91-KL/TW (12/8/2024) của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW [5].
2. Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về giáo dục
Ngày 22/8/2025 BCT ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW trong đó yêu cầu cung cấp 1 bộ SGK dùng chung cho toàn quốc. Tức là 1 chương trình 1 bộ SGK.
Nghị quyết 71-NQ/TW loại bỏ mô hình “một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa”, cả Điều 32 - Luật Giáo dục 2019 [6].
II. CÁC NƯỚC VIẾT, BÁN VÀ MUA SÁCH GIÁO KHOA NHƯ THẾ NÀO?
Để có thêm thông tin, xin viện dẫn tóm tắt về cách viết, bán và mua SGK ở các nước như Hoa Kỳ, Anh Quốc, CHLB Đức, Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc.
HOA KỲ
Không có SGK chung cho cả quốc gia. Quyền quyết định giáo dục thuộc về các bang và địa phương, không phải chính phủ liên bang. Các bang ban hành chuẩn học tập, phê duyệt sách giáo khoa và chương trình; quận/ trường học lựa chọn SGK, tổ chức dạy học và đánh giá, tạo nên hệ thống phân quyền cao và đa dạng.
Mỗi môn có hàng chục bộ sách do các nhà xuất bản tư nhân (Pearson, McGraw-Hill…) biên soạn cùng giáo viên, chuyên gia và đội ngũ thiết kế học liệu số. Sách được viết bám chuẩn bang, kèm hệ sinh thái (ebook, bài tập online, dữ liệu học sinh). Quận/trường chọn sách, giáo viên tham gia đánh giá; học sinh dùng sách do trường cung cấp (thường mượn). Bán sách theo hợp đồng lớn cho quận/bang, dùng thử miễn phí, đào tạo giáo viên.
Ưu điểm là phân quyền mạnh dẫn đến cạnh tranh mạnh, đổi mới nhanh, đa dạng phương pháp và học liệu số phong phú.
Nhược điểm là chất lượng không đồng đều giữa các địa phương, chi phí cao và phụ thuộc nhiều vào năng lực quản trị của quận, trường.
ANH QUỐC
Anh không bắt buộc dùng SGK. Nhà xuất bản tư nhân viết sách dựa trên “Chương trình Giáo dục quốc gia” (National Curriculum) và đặc biệt là yêu cầu kỳ thi (GCSE, A-level). Có nhiều bộ sách cho cùng một môn, không giới hạn số lượng. Trường và giáo viên tự quyết định dùng sách nào hoặc chỉ dùng tài liệu tự soạn. Học sinh thường không được cấp SGK chuẩn, mà dùng sách do trường chọn hoặc tài liệu photo/online. Nhà xuất bản bán sách trực tiếp cho trường và giáo viên, marketing dựa vào uy tín học thuật và hiệu quả luyện thi.
Ưu điểm là linh hoạt, sáng tạo.
Nhược điểm là phụ thuộc thi cử và chênh lệch chất lượng giữa các trường.
CHLB ĐỨC
Đức theo mô hình liên bang. SGK do nhà xuất bản tư nhân và giáo viên biên soạn.
Mỗi bang phê duyệt 5–10 bộ/môn do nhà xuất bản tư nhân và giáo viên biên soạn theo chương trình bang. Mỗi môn thường có 5–10 bộ sách tùy bang. Giáo viên và trường chọn sách trong danh mục được duyệt; học sinh dùng thống nhất trong lớp. Học sinh thường được trường cấp hoặc mượn sách, đôi khi đóng phí nhỏ. Nhà xuất bản bán sách thông qua bang, địa phương và trường, marketing thiên về hội thảo chuyên môn, uy tín sư phạm hơn quảng cáo.
Ưu điểm là chất lượng học thuật cao, cạnh tranh lành mạnh.
Nhược điểm là phân mảnh giữa các bang và quản lý phức tạp.
PHÁP
Pháp quy định chương trình quốc gia rất chi tiết, nhưng SGK do nhà xuất bản tư nhân biên soạn. Mỗi môn thường có 2–5 bộ sáchphổ biến. Giáo viên và trường lựa chọn sách phù hợp với chương trình; học sinh thường mua sách hoặc mượn từ trường tùy địa phương. Nhà xuất bản bán sách trực tiếp cho trường, dựa nhiều vào uy tín truyền thống và tính chuẩn mực học thuật, marketing tương đối “kín”.
Ưu điểm là thống nhất nội dung cốt lõi nhưng vẫn đa dạng sách.
Nhược điểm là đổi mới chậm và nặng tính hàn lâm.
NHẬT BẢN
SGK do nhà xuất bản tư nhân và giáo viên viết. Bộ Giáo dục (MEXT) thẩm định rất nghiêm ngặt. Mỗi môn có 3–5 bộ sách được phê duyệt. Địa phương và giáo viên chọn một bộ để dạy. Học sinh các trường công lập được cấp hoặc mượn sách miễn phí, nhưng phải trả lại cuối năm. Nhà xuất bản không quảng cáo đại trà mà marketing qua hội thảo, quan hệ chuyên môn với giáo viên.
Ưu điểm là kiểm soát chất lượng chặt, cạnh tranh học thuật ổn định.
Nhược điểm là quy trình phê duyệt lâu và đổi mới thận trọng.
TRUNG QUỐC
Chương trình quốc gia. SGK chủ yếu do nhà xuất bản nhà nước và chuyên gia biên soạn theo chương trình quốc gia. Mỗi môn thường có 1 bộ chính, một số địa phương có bản địa hóa. Trung ương hoặc địa phương quyết định dùng sách. Giáo viên và học sinh không có quyền chọn. Học sinh thường mua sách với giá trợ cấp và sử dụng cá nhân. Việc “bán sách” mang tính hành chính, ít cạnh tranh thị trường.
Ưu điểm là thống nhất cao, dễ triển khai.
Nhược điểm là thiếu cạnh tranh, hạn chế phản biện và khó đáp ứng đa dạng nhu cầu.
III. ĐƯỢC MẤT SAU QUYẾT ĐỊNH DÙNG CHUNG MỘT BỘ SGK TRÊN TOÀN QUỐC
Việt Nam bắt đầu xã hội hóa việc biên soạn sách giáo khoa từ sau Nghị quyết 29-NQ/TW (2013), được triển khai thực tế khi ban hành Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Từ năm học 2020–2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) lần đầu phê duyệt và đưa vào sử dụng nhiều bộ sách giáo khoa do các tổ chức, cá nhân khác nhau biên soạn. Đến nay, Bộ GD&ĐT đã phê duyệt ba bộ sách giáo khoa đầy đủ: Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo và Cánh Diều.
Trước Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025), Uý ban Văn hoá – Xã hội của Quốc hội đã đề nghị Bộ GD&ĐT soạn một bộ SGK dùng chung toàn quốc, các bộ SGK khác giữ vai trò phụ trợ [7]. Nhưng sau Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025), Bộ GD&ĐT không biên soạn bộ SGK mới, mà chọn ngay trong số các bộ SGK đã tồn tại. Bằng Quyết định số 3588/QĐ-BGDĐT ngày 26/12/2025, Bộ GD&ĐT đã chọn 1 bộ SGK duy nhất dùng chung thống nhất toàn quốc từ năm học 2026-2027 [8]. Điều này đưa đến nhiều điều suy nghĩ.
1.Những điểm lợi cơ bản khi chỉ dùng một bộ sách giáo khoa
- Việc quay lại mô hình một bộ SGK duy nhất trước hết đơn giản hóa đáng kể công việc của giáo viên, đặc biệt trong bối cảnh phần lớn giáo viên phổ thông vẫn quen dạy theo SGK như “chuẩn mực tối cao”. Khi chỉ có một bộ SGK, giáo viên không cần (và cũng không được kỳ vọng) phải sáng tạo hay thiết kế bài học theo nhiều hướng, mà chủ yếu rập khuôn theo nội dung thống nhất. Điều này giúp giảm áp lực chuyên môn, giảm chênh lệch chất lượng dạy học do năng lực cá nhân giáo viên khác nhau.
- Thứ hai, mô hình một SGK giúp thống nhất tuyệt đối nội dung thi cử và kiểm tra đánh giá. Việc xây dựng đề thi, ngân hàng câu hỏi, chuẩn đầu ra trở nên dễ hơn, ít tranh cãi hơn, và thuận lợi cho việc đánh giá học sinh trên cùng một “mặt bằng nội dung” trên phạm vi toàn quốc. Ở góc độ quản lý, đây là lợi ích rất lớn.
- Thứ ba, phụ huynh bớt băn khoăn và lo lắng. Không còn câu hỏi “trường này dùng sách gì, có thiệt cho con tôi không”, không phải mua thêm nhiều bộ sách tham khảo để “phòng rủi ro”. Tâm lý xã hội vì thế ổn định hơn.
- Thư tư l chi phí. về nguyên tắc, một bộ SGK có thể tiết kiệm chi phí quản lý nhà nước (biên soạn, thẩm định, tập huấn, in ấn, logistics). Tuy nhiên, chỉ thực sự tiết kiệm nếu tránh được độc quyền giá và tái bản không cần thiết. Nếu không, lợi ích tài chính cho quốc gia là không hiển nhiên.
- Sau nữa, mô hình này giúp bộ máy quản lý vận hành nhanh, gọn và ít xung đột lợi ích, nhất là trong ngắn hạn, khi mục tiêu ưu tiên là kiểm soát, ổn định và đồng bộ, hơn là khuyến khích đa dạng và đổi mới.
2. Những điều thiệt khi chuyển sang mô hình một bộ sách giáo khoa
Khi quay lại mô hình một bộ SGK duy nhất, chúng ta đang đánh đổi nhiều lợi ích đã đạt được trong suốt quá trình triển khai mô hình “một chương trình, nhiều bộ SGK”.
1/. Sự suy giảm tính đa dạng và đổi mới sáng tạo
Mô hình nhiều bộ SGK trước đây đã khuyến khích sự đa dạng hóa trong cách tiếp cận giảng dạy, giúp các nhà xuất bản và đội ngũ biên soạn có không gian sáng tạo, đổi mới nội dung, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục. Khi chỉ còn một bộ SGK, tính đa dạng này sẽ bị thu hẹp, khiến giáo viên và học sinh dễ rơi vào trạng thái “rập khuôn”, thiếu sự linh hoạt trong phương pháp giảng dạy.
2/. Giảm tính cạnh tranh và chất lượng nội dung
Khi có nhiều bộ SGK, sự cạnh tranh giữa các nhà xuất bản buộc họ phải nâng cao chất lượng, đổi mới thường xuyên để thu hút người dùng. Khi quay về một bộ SGK, các nhà xuất bản không còn động lực cạnh tranh mạnh mẽ, dẫn đến nguy cơ nội dung SGK trở nên nhàm chán, kém phong phú và thiếu cập nhật.
3/. Hạn chế quyền lựa chọn của giáo viên và học sinh
Việc chỉ có một bộ SGK khiến giáo viên và học sinh mất đi sự lựa chọn linh hoạt. Mỗi vùng miền, mỗi đối tượng học sinh có thể có những nhu cầu và đặc thù riêng, nhưng với một bộ SGK duy nhất, khó có thể đáp ứng đầy đủ những khác biệt này, dẫn đến tình trạng đồng đều hóa, thiếu sự cá nhân hóa trong giáo dục.
4/. Động lực đổi mới bị giảm sút
Trong mô hình nhiều bộ SGK, sự cạnh tranh đã thúc đẩy các nhà biên soạn không ngừng đổi mới, cải thiện nội dung. Khi quay về một bộ SGK duy nhất, động lực này bị suy giảm, có thể dẫn đến tình trạng trì trệ, thiếu sự sáng tạo trong giáo dục.
5/. Hạn chế phân quyền
Muốn quản trị quốc gia năng động và sáng tạo, cần phân cấp phân quyền cao. Việc tập trung quyền lực sẽ dẫn đến thụ động, suy giảm hiệu quả trong quản lý.
6/. Tổn thất về tài chính, niềm tin và tốc độ phát triển dài hạn
Việc Bộ GD&ĐT phủ quyết mô hình “một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa” không chỉ là thay đổi kỹ thuật, mà là một sự đảo chiều chiến lược với tổn thất chi phí không nhỏ. Trước hết, nó gây lãng phí nguồn lực xã hội: hàng nghìn chuyên gia, giáo viên, nhà khoa học đã tham gia biên soạn, thẩm định, tập huấn; ngân sách nhà nước và vốn xã hội hóa đã được đầu tư trong nhiều năm cho các bộ SGK, nay bị triệt tiêu giá trị định hướng chỉ sau một quyết định hành chính.
Thứ hai, sự đảo chiều này tạo ra độ trễ cải cách kéo dài. Việt Nam đã đi được một quãng đường đáng kể trên con đường tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiến bộ – nơi chương trình là thống nhất nhưng học liệu đa dạng. Việc quay ngược lại buộc hệ thống phải làm lại từ đầu, đồng thời trì hoãn việc hình thành đội ngũ giáo viên có năng lực lựa chọn, phản biện và sáng tạo – yếu tố cốt lõi của giáo dục hiện đại.
Tiếp theo, sự phủ nhận giữa các quyết định làm suy yếu tính tích lũy chính sách. Khi cải cách không được kế thừa mà bị đảo ngược, giáo dục dễ rơi vào vòng lặp “làm – dừng – làm lại”, vừa tốn kém, vừa làm chậm nhịp so với quỹ đạo tiến bộ chung của thế giới.
3. So sánh quốc tế
Nhật Bản, dù có một chương trình quốc gia, nhưng vẫn cho phép nhiều bộ SGK tồn tại, giúp duy trì sự đa dạng và đổi mới. Các nước khác như Hoa Kỳ, Đức, Pháp đều có nhiều bộ SGK, đảm bảo sự phong phú và linh hoạt. Việt Nam, khi quay về mô hình giống Trung Quốc, sẽ mất đi những lợi ích của mô hình nhiều bộ SGK.
Việc quay về một bộ SGK duy nhất có thể mang lại sự đơn giản và kiểm soát tốt hơn trong ngắn hạn, nhưng đồng thời cũng sẽ đánh đổi những giá trị dài hạn về sự đa dạng, đổi mới và tính linh hoạt. Về học thuật, quay lại một bộ SGK đồng nghĩa với thu hẹp đa dạng tư duy, tái lập nguy cơ độc quyền nội dung, làm nghèo không gian tranh luận khoa học. Giáo viên trở lại vai trò “người thực thi”, thay vì “người lựa chọn và sáng tạo”.
IV. KHI CHÍNH TRỊ THỐNG SOÁI
Quỹ đạo quay vòng từ một bộ SGK sang nhiều bộ SGK rồi trở lại một bộ SGK gợi nhớ lại với đường vòng thể chế: sau 1917 và 1945, lựa chọn mô hình xã hội chủ nghĩa tập trung – thống nhất tuyệt đối; đến năm 1990-1991, chuyển sang con đường chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị trường; rồi trong thực tế lại tái tập trung quyền lực ở nhiều lĩnh vực cốt lõi. Điểm giống nhau nằm ở dao động giữa kiểm soát và mở cửa, phản ánh sự chưa ổn định của năng lực quản trị. Quy luật chung: mở ra khi cần phát triển, siết lại khi lo rủi ro, nhưng mỗi lần đảo chiều đều để lại chi phí lớn về thời gian và nguồn lực.
Xét theo quy luật phát triển chung của giáo dục hiện đại, mô hình “một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa” không phải là lựa chọn ngẫu nhiên, mà là đích đến dài hạn của các hệ thống giáo dục khi trình độ quản trị và năng lực đội ngũ tăng lên. Lịch sử cải cách ở nhiều quốc gia cho thấy: giai đoạn tập trung – thống nhất cao thường xuất hiện khi hệ thống còn yếu, sau đó dần mở ra – đa dạng hóa để khuyến khích sáng tạo và nâng cao chất lượng.
Về logic dài hạn, Việt Nam sẽ quay trở lại mô hình một chương trình, nhiều bộ SGK. Khi mà các điều kiện chín muồi hơn: đội ngũ giáo viên đủ năng lực lựa chọn học liệu, cơ chế thẩm định minh bạch, và xã hội chấp nhận đa dạng học thuật. Việc quay lại không phải là “đổi mới”, mà là trở về quỹ đạo cải cách đã từng lựa chọn.
Ngay cả Trung Quốc, dù hiện vẫn duy trì SGK thống nhất cao, cũng đang mở dần không gian học liệu thông qua sách bổ trợ, học liệu số, chương trình địa phương và thí điểm linh hoạt ở các đô thị lớn. Điều này cho thấy xu hướng mở rộng đa dạng học liệu là tất yếu, chỉ khác nhau về tốc độ.
Quy luật chung là: quản lý tập trung để ổn định, rồi đa dạng hóa để phát triển. Câu hỏi không phải là “có quay lại hay không”, mà là khi nào và với cái giá bao nhiêu.
V. BÀI HỌC
Môi trường là yếu tố quyết định. Như nếu không còn bầu khí quyển làm môi trường sống tan biến, thì sự sống sẽ không tồn tại trên trái đất.
Cải cách giáo dục ở Việt Nam từ 1 bộ SGK đến nhiều bộ SGK rồi quay về 1 bộ SGK không đơn giản là chủ trương, là quyết tâm chính trị, mà sâu xa hơn là do môi trường. Môi trường chưa phù hợp nên lại quay về 1 bộ SGK.
Không chỉ trong giáo dục, mà bao gồm cả khoa học. Chính sách mời người tài, bằng cách chi trả nhiều tiền, chi là con đường lãng phí, nếu không tạo ra môi trường để người tài làm việc, thể hiện hết khả năng.
Mở rộng ra cho các lĩnh vực khác, như phát triển kinh tế, quản trị quốc gia, công bằng xã hội…, muốn đạt được các bước tiến vượt trội đích thực, để sánh vai với các quốc gia tiên tiến của nhân loại, thì cần phải có môi trường. Chưa tạo môi trường, dẫu đặt mục tiêu táo bạo vào nhóm đầu, cũng chỉ là ước mơ.
NGUYỄN NGỌC CHU 28.12.2025

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.