"Họ (TQ)
muốn đây là vấn đề song phương, mà vấn đề song phương thì các nước khác không
được dính líu vào. Chỉ là giữa Trung Quốc với Việt Nam thôi. Thì vấn đề này
Việt Nam phải suy nghĩ, vì trong mười mấy năm qua chúng tôi nói là Việt Nam
phải cố gắng đa phương hóa vấn đề Biển Đông."
Điều đáng tiếc
là trong bài phỏng vấn, GS Long đã không cắt nghĩa để độc giả hiểu thế nào là "đa
phương hóa tranh chấp ở Biển Đông", đặc biệt ở bãi Tư Chính.
Tranh chấp Tư Chính bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền
Vụ bãi Tư Chính, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao của cả hai bên lên tiếng phản đối nhau, nội dung xét ra không khác chi nhiều.
Phía Trung Quốc
ra tuyên bố: "VN phải nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có
bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình."
Phía Việt Nam
ra tuyên bố: "Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối
với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước
của LHQ về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành
viên."
Tranh chấp ở
Bãi Tư Chính vì vậy là có nguồn gốc từ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ (chống
lấn hải phận, tranh chấp quyền tài phán v.v…). Câu hỏi đặt ra cho GS Long là
làm thế nào để "đa phương hóa" một tranh chấp vốn có nguồn gốc lâu
đời từ "tranh chấp về chủ quyền"?
Theo tôi Biển
Đông có rất nhiều vấn đề, vừa "đa phương" vừa "song
phương". Việc các quốc gia chung quanh Biển Đông phải tôn trọng quyền tự
do hải hành của tàu bè các nước là vấn đề "đa phương". Việc các nước
ASEAN cùng TQ thảo luận bộ "qui tắc ứng xử - COC" ở Biển Đông là một
vấn đề "đa phương".
Tôi không nghĩ tranh chấp Tư Chính sẽ được
giải quyết trong khuôn khổ "quyền tự do hải hành" hay theo nội dung
"tuyên bố ứng xử COC". Các việc "song phương",chỉ có thể giải
quyết bằng thiện chí giữa hai nước, như việc phân định hải phận giữa hai quốc
gia kế cận, hay đối diện trên Biển Đông.
Việt Nam phân định biển với Thái Lan,
Malaysia... VN nộp chung hồ sơ "thềm lục địa mở rộng" với Malaysia…
là các vấn đề "song phương", không quốc gia nào có thể "xen
vào". Mọi tranh chấp về "chủ quyền" ở một vùng lãnh thổ đều được
giải quyết giữa các bên "có yêu sách chủ quyền". Tranh chấp này có thể
được "quốc tế hóa", phân xử bằng một trọng tài quốc tế, như Tòa án
Công lý Quốc tế.
Việc phân định biển giữa hai quốc gia chỉ
có thể được "quốc tế hóa", tiên khởi với sự đồng thuận của hai bên, bằng
một tòa án, hay một trọng tài quốc tế, nếu hai bên tranh chấp không tìm được thỏa
thuận trong việc phân định. Bất kỳ quốc gia thứ ba can dự vào các việc này đều
có thể qui vào việc vi phạm Hiến chương LHQ "không được can dự chuyện nội
bộ quốc gia khác".
Tranh chấp Tư Chính: "Đa
phương" hay "song phương"?
Ta hãy xét những hành vi của tàu nghiên cứu
địa chất của TQ đã (và đang) diễn ra ở bãi Tư Chính và lô 6.1.
Bãi Tư Chính Trung Quốc đặt tên là Vạn An
Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên "bản đồ dầu
khí" của VN. Toàn bộ khu vực Tư Chính nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của
VN, tính từ điểm cơ bản "Hòn Hải" thuộc cụm đảo Phú Quí.
TQ phản đối hệ thống điểm (và đường) cơ bản
của VN, vì nó cách xa bờ. Giả sử VN từ bỏ hệ thống điểm cơ bản, điểm tính bề rộng
hải phận 200 hải lý lấy từ ngấn nước cận bờ thì Bãi Tư Chính có một phần nằm
ngoài khu vực 200 hải lý.
Lô 6.1 nằm ngoài khu vực Vạn An Bắc, thuộc
bãi trầm tích Nam Côn Sơn, hoàn toàn nằm trong thềm lục địa tự nhiên (và pháp
lý) của VN. Lô này hiện do công ty dầu khí lớn nhứt nước Nga là Rosneft khai thác
(và phát triển) từ năm 2013 với 2 mỏ Lan Tây, Lan Đỏ. Trước đó lô 6.1 do BP
khai thác, từ 2003 đến 2010 (BP rút lui do sức ép kinh tế của TQ).
Ngay cả khi đặt giả thuyết đảo Côn Sơn
không đủ tiêu chuẩn "đảo" theo Điều 121 UNCLOS và Hòn Hải (thuộc cụm
đảo Phú Quí) không có tiêu chuẩn để lấy làm "điểm cơ bản", thì lô 6.1
vẫn nằm trong vòng 200 hải lý, tính từ bờ biển VN (Trà Vinh hay Phan Thiết). Ghi
lại các chi tiết này để thấy mọi yêu sách của TQ chống lại VN tại lô 6.1 là
ngang ngược, phi lý.
"Bản chất" của tranh chấp khu vực
Tư Chính là gì tại lô 6.1 là gì?
Thứ nhứt, ở Bãi Tư Chính, nguyên nhân
tranh chấp có thể đến từ sự đối nghịch lập trường giữa VN và TQ về việc giải
thích nội dung của Luật Biển 1982, như việc giải thích hiệu lực các đảo Trường
Sa theo điều 121.
TQ cho rằng họ có chủ quyền các đảo Trường
Sa mà các đảo này có hiệu lực "đảo". Khu vực Tư Chính nằm trong vùng
"chồng lấn" giữa các đảo Trường Sa và bờ biển VN. Việc này vốn
"song phương", đã được giải quyết bằng "quốc tế hóa", trong
phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 trong vụ Philippines kiện TQ, theo đó
không có đảo nào ở Trường Sa có hiệu lực "đảo" để có 200 hải lý hải
phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa.
Thứ hai, tranh chấp Tư Chính có thể đến từ
sự áp đặt về "chủ quyền lịch sử" của TQ, thể hiện qua bản đồ chữ U 9
đoạn.
Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng
lấn" giữa "vùng nước lịch sử" (bản đồ chữ U) của TQ và vùng biển
đặc quyền kinh tế (EEZ) của VN tính từ bờ. Đây là một vấn đề vốn "song
phương" nhưng đã giải quyết bằng "quốc tế hóa" qua phán quyết của
Tòa Trọng tài 11/7/2016 nêu trên. Theo phán quyết, Tòa cho rằng "biển lịch
sử" hay "chủ quyền lịch sử" thể hiện trong bản đồ chữ U là các
khái niệm không phù hợp với Luật Biển 1982.
Thứ ba, nếu TQ không nhìn nhận hệ thống
điểm (và đường) cơ bản thì Bãi Tư Chính vẫn nằm trong thềm lục địa pháp lý của
VN (thềm lục địa mở rộng 200+100 hải lý), còn lô 6.1 hoàn toàn nằm trong thềm lục
địa địa lý và pháp lý (200 hải lý) của VN.
Như vậy, bản chất tranh chấp ở bãi Tư
Chính là TQ "ngồi xổm" lên luật lệ, bất chấp phán quyết ngày
11/7/2016 của Tòa Trọng tài. Nội dung phán quyết có mục đích giải thích việc áp
dụng Luật Biển 1982 tại Biển Đông. Bản thân của phán quyết vì vậy cũng là
"Luật".
Tòa cũng phán rằng các bãi chìm ở Trường
Sa, như Bãi Tư Chính, thuộc về thềm lục địa của quốc gia ven bờ (tức của VN).
Chúng không phải là đối tượng lãnh thổ để chiếm hữu hoặc tuyên bố chủ quyền. TQ
cũng bất chấp thực tế pháp lý và lịch sử là Quần đảo Trường Sa chưa bao giờ thuộc
về TQ.
Như vậy tranh chấp giữa VN và TQ ở khu vực
Tư Chính là tranh chấp vừa "song phương" vừa có tính "quốc tế".
"Song phương" vì VN là nạn nhân của thái độ bành trướng ngang ngược,
bá quyền ngồi trên luật của TQ. "Quốc tế" là vì mọi vấn đề liên quan
đến việc "tuân thủ luật lệ" thuộc thẩm quyền của tất cả các quốc gia
thuộc LHQ.
Nhưng ở lô 6.1 thì tuyệt đối không có
tranh chấp chi cả.
TQ "đẩy" VN cái gì?
GS Long có đề cập đến việc tự do thông
lưu ở Biển Đông và trường hợp Đài loan để "minh họa" cho nội hàm
"đa phương hóa" của mình. Dẫn nguyên văn: "Là bởi vì nhiều nước
trên thế giới đi ngang Biển Đông, nhưng Việt Nam lại rụt rè. Thành ra, Trung Quốc
bây giờ càng ngày càng đẩy. Trung Quốc đẩy rất là 'hay', không những ở Biển
Đông mà cả ở Đài Loan nữa. Họ đẩy từ từ.
"Ví dụ như Đài Loan, ngày xưa, thỏa thuận
giữa Mỹ và Trung Quốc nói rằng là người Trung Quốc ở Đài Loan và người gốc
Trung Quốc ở Đài Loan và người Trung Quốc ở lục địa đồng ý là chỉ có một nước
Trung Quốc, không có nói gì vấn đề là Đài Loan thuộc về Trung Quốc.""Nhưng
Trung Quốc đẩy từ từ, bây giờ nói là ĐàiLoan là một tỉnh của Trung Quốc…" Hết
dẫn. Mục đích "đa phương hóa" của GS Long, (nếu không lầm), là làm giảm
sức "đẩy" của TQ.
Nhận định của cá nhân tôi, vấn đề
"tàu bè nhiều nước qua lại trên Biển Đông" là một "vấn đề quốc tế",
thuộc về tập quán quốc tế (Thông luật quốc tế - Droit International Coutumier),
được cụ thể hóa qua điều 87 của bộ Luật quốc tế về Biển 1982.
Không ai "đa phương hóa" một vấn
đề tự nó đã là một "vấn đề của quốc tế".
Về tự do thông lưu, trên không và trên biển,
các đại cường như Mỹ, Pháp, Nhật… cho rằng hải đạo xuyên qua Biển Đông là một hải
đạo quốc tế, các quốc gia cận biển phải tôn trọng quyền tự do thông lưu của các
quốc gia khác.
TQ chủ trương "tự do thông
lưu", tàu bè được tự do qua lại trong lãnh hải cũng như hải phận kinh tế độc
quyền EEZ của TQ, nhưng điều này không áp dụng cho tàu chiến. Các quốc gia như
Mỹ không chia sẻ lập trường này của TQ, như tại eo biển Đài loan, hay những
vùng TQ mở rộng theo bản đồ chữ U ở Biển Đông.
Trên nguyên tắc, quyền tự do thông lưu
thuộc về mọi quốc gia và quyền này được "luật quốc tế" bảo đảm. Mọi
hành vi cản trở quyền tự do này đều xâm phạm đến lợi ích của tất cả các quốc
gia khác.
Quyền tự do thông lưu trên Biển Đông thực
tế chưa bao giờ bị cản trở.
Lo ngại chỉ bắt đầu dấy lên từ khi TQ
hoàn tất việc xây dựng 7 đảo nhân tạo đồng thời "quân sự hóa" chúng
(đầu năm 2018). Tuyên bố "vùng nước lịch sử" của TQ ở Biển Đông qua bản
đồ chữ U 9 đoạn có thể đưa vào thực tế. Các quốc gia "nhỏ" chung
quanh Biển Đông có nguy cơ bị TQ sử dụng áp lực kinh tế và quân sự buộc phải
nhìn nhận thực tế này.
Để chống lại tham vọng của TQ, năm 2013 nội
các Obama thành lập Chương trình FONOP (Freedom Of Navigation Operation
Program) ở Biển Đông nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không. Các chiến
hạm Mỹ đã thực hiện chương trình FONOP, có lần đi qua lãnh hải 12 hải lý các đảo
thuộc Hoàng Sa như đảo Phú Lâm và đảo Tri Tôn (USS Wilbur Curtis tháng giêng
2016, USS Stenthem tháng 7/2017) nhằm thách thức yêu sách "lãnh hải"
và "vùng nước quần đảo" của TQ tại Hoàng Sa.
Các chiến hạm của Mỹ cũng thực hiện FONOP
qua các chuyến đi vào khu vực 12 hải lý những đảo nhân tạo thuộc Trường Sa như
đá Chữ Thập (USS W.P. Lawrence tháng 5/2016) , đá Gaven (USS Decatur tháng
9/2018)... nhằm thách thức yêu sách phi lý của TQ về hải phận của một cấu trúc
nhân tạo trên biển. Về hàng không thì phi cơ dọ thám Poseidon đã bay ngang qua
đá Chữ thập để thách thức không phận đảo nhân tạo này (tháng 5/2015)...
Các quốc gia lo ngại rằng, với các bộ luật
quốc gia của TQ hạn chế đáng kể các hoạt động của tàu bè trong một vùng
"biển quốc tế", TQ có thể đơn phương ra tuyên bố vùng nước, vùng trời
(như tuyên bố vùng Nhận dạng phòng không ADIZ) khu vực Biển Đông. Mọi phương tiện
bay qua không phận Biển Đông, hoặc tàu bè qua lại trên Biển Đông đều phải thông
báo hoặc xin phép TQ.
Vì vậy ta có thể hy vọng rằng chương
trình FONOP của hải quân Mỹ vẫn được tiếp tục (mà không lo ngại rằng nội các TT
Trump sẽ bãi bỏ vì lý do "kinh tế" hay trao đổi lợi ích với TQ). Hiển
nhiên chương trình FONOP của Mỹ trong chừng mực là "quốc tế hóa",
"đa phương hóa" Biển Đông mà VN là một bên có lợi.
Giải pháp nào cho tranh chấp Tư Chính?
Theo tôi, sở dĩ có những vấn đề như Tư
Chính hiện nay, nguyên nhân là do TQ không tuân thủ luật chơi quốc tế.
Nhiều người gợi ý VN copy hồ sơ của
Philippines để đi kiện TQ. Theo tôi, khó khăn của VN là làm thế nào để phán quyết
của Tòa Trọng tài có hiệu lực chớ không phải đi kiện TQ với mô hình (hồ sơ) của
Philippines. Đi kiện (theo mô hình của Philippines) VN chắc phần thắng, nhưng hệ
quả vẫn là một phán quyết y như phán quyết của Tòa tháng 7/2016. TQ không tham
gia, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa và dĩ nhiên không công nhận phán quyết
của Tòa.
VN cần phải có "tư duy mới" và
cách tiếp cận mới trong những vấn đề Biển Đông.
Mới đây viên chức Mỹ tố cáo Tập Cận Bình
đã "bội ước" trong lời hứa "không quân sự hóa các đảo ở Biển
Đông".
Theo nội dung bài báo trên VOA ngày
30/5/2019, Tướng Joseph Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân
Hoa Kỳ, nhân phát biểu trong một cuộc trao đổi về quốc phòng ở Viện Brookings tại
thủ đô Washington nói rằng: "Mùa thu năm 2016, Chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa
với Tổng thống Obama là họ sẽ không quân sự hóa các hòn đảo [ở Biển Đông].
Nhưng những gì chúng ta chứng kiến ngày hôm nay đó là các đường băng dài 10
nghìn bộ [hơn 3 nghìn mét], các kho chứa đạn dược, việc thường xuyên triển khai
thiết bị có khả năng phòng thủ tên lửa, khả năng hàng không, v.v..." "Vì
thế, rõ ràng họ đã từ bỏ cam kết đó".
Hôm 11/7, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ,
bà Morgan Ortagus, ra tuyên bố lên án TQ: « việc Trung Quốc quân sự hóa các tiền
đồn tại vùng đang tranh chấp ở Biển Đông đã phản bội cam kết năm 2015 của chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình là không tiến hành những hoạt động đó ».
Ý kiến của Tập Cận Bình có thể trở thành
một "tuyên bố đơn phương" có giá trị pháp lý ràng buộc.
VN cần đứng đầu trong việc phát động
phong trào phản đối, buộc họ Tập tuân thủ lời hứa, Biển Đông phải "phi
quân sự" thì các quốc gia chung quanh mới có thể tránh được áp lực gay gắt
từ TQ. Ngoài ra ta không thể loại trừ giả thuyết ý đồ của Tập Cận Bình khẳng định
sự hữu dụng của việc xây dựng 7 đảo nhân tạo. Những chiếc tàu hải cảnh quấy rối
VN đều có ghé qua các đảo Chữ Thập và Subi để lấy nhiên liệu.
Báo South China Morning Post hôm đầu
tháng có bài viết nội dung trích dẫn ý kiến của khoa học gia TQ, cho rằng TQ đã
không nghiên cứu kỹ về địa chất và thời tiết khi xây dựng các đảo nhân tạo. Kiến
trúc bằng bê tông ở các đảo này bị hư hỏng sau ba năm (do tia tử ngoại) và khí
tài bằng kim khí bị rỉ sét (vì nước biển) sau một năm. Riêng năm 2014 TQ đã phải
chi phí 300 tỉ đô la, tương đương 3% GDP cho việc bảo trì gây ra từ việc rỉ sét
(tàu bè, súng đạn, máy móc…).
Nếu các con số này là "sự thật"
thì chi phí bảo trì cho các đảo nhân tạo cực kỳ lớn. Các đảo thay vì là các
"tiền đồn trên biển" của TQ nhằm mục đích khẳng định chủ quyền thì trở
thành những "cục nợ" mà Tập Cận Bình là thủ phạm.
VN không thể loại trừ viễn cảnh TQ sẽ cho
tàu bè quấy rối VN lâu dài và thường xuyên. Tập Cận Bình không chỉ muốn chứng
minh cho phe chống đối thấy rằng các đảo nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho tàu hải cảnh
cản trở công tác khai thác ở lô 6.1, hay các tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm
tích Tư Chính (như đã thấy). Mà về lâu về dài, các vị trí quân sự đóng ở các đảo
này sẽ can thiệp nhanh chóng để bảo vệ (trong tương lai) các giàn khoan của TQ
hoạt động trong khu vực.
Vì vậy công tác hô hào "Tập Cận Bình
phải giữ lời hứa không quân sự hóa các đảo Biển Đông" còn có hiệu quả làm
giảm nhịp điệu gây hấn của TQ. Nhưng quan trọng hơn cả là làm sao để TQ tuân thủ
luật lệ quốc tế. Phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài thường trực có nội
dung diễn giải và hướng dẫn cách thức áp dụng luật Quốc tế về Biển 1982 cho khu
vực Biển Đông. Phán quyết vì vậy "cũng là Luật".
VN thua ở Bãi Tư Chính?
GS Long nói "VN thua ở bãi Tư
Chính". Nói vậy theo tôi là hơi sớm. Thực tế đến nay TQ chưa
"hút" được lít dầu nào ở khu vực này. Điều ta cần tìm hiểu là đàng
sau vụ Tư Chính có những chuyện gì xảy ra.
Nếu ta nhớ lại vụ chiếc HD981 năm 2014 hoạt
động ngoài khơi đảo Lý Sơn, TQ cũng không "hút" được lít dầu nào ở
khu vực này. Vấn đề là song song với "biến cố HD981" TQ cho xây dựng
7 đảo nhân tạo. Việc TQ quân sự hóa 7 đảo nhân tạo (vốn chiếm của VN năm 1988)
đã đe dọa an ninh quốc gia VN cũng như an ninh toàn khu vực.
Nhưng đó vẫn là "nghi vấn". Điều
cần thiết, theo tôi GS Long cần giải thích thêm về nội hàm "quốc tế hóa
tranh chấp Biển Đông", đặc biệt trong trường hợp hiện nay VN và TQ ở vùng
Tư Chính. Điều này sẽ giúp cho giới học giả VN về Biển Đông thêm cơ hội nghiên
cứu để đóng góp vào công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền và lợi
ích của VN ở hải phận EEZ và thềm lục địa của đất nước mình.
TRƯƠNG NHÂN TUẤN (Bài đăng trên BBC
ngày 28.07.2019)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.