Bãi Tư Chính (Vanguard Bank trong tài liệu của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. |
Mỗi khi có một
đụng chạm về chủ quyền của các đảo trên Biển Đông như trường hợp Bãi Tứ Chính
hiện nay, Trung Cộng thường lập đi lập lại một luận điệu gọi là “quyền lịch
sử” của Trung Cộng trên Biển Đông. Thế nhưng hơn ba năm trước chính phủ
Philippines đã từng thách thức Trung Cộng ra trước Tòa án Trọng tài Thường trực
để chứng minh “quyền lịch sử” đó thì Trung Cộng lại không dám ra. Như
vậy, thực chất của cái gọi là “quyền lịch sử” này là gì?
Tháng 7, 2016,
từ các trang mạng xã hội, diễn đàn, cho đến các
tầng lớp, thế hệ Việt Nam trong cũng như ngoài nước, một luồng sóng cảm tình
dành cho Philippines tràn ngập, nhiều hơn cả khi quốc gia này bị cơn bão
Yolanda càn quét cách đây ba năm. Đây là một tình
cảm rất tự nhiên giữa những người cùng số phận nhỏ nhoi nhưng phải đương đầu
với một Trung Cộng to lớn và đầy tham vọng.
Ủng hộ
Philippines không có nghĩa ủng hộ chủ quyền của Phi trên các đảo Philippines
đòi hỏi, mà là ủng hộ một nước dân chủ nhưng sức yếu chống lại một Trung Cộng
bá quyền bành trướng.
Phán quyết của
Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration, PCA) không có
nghĩa sẽ làm ngưng tranh chấp và phần thắng chỉ thuộc về Philippines, vì rất
nhiều quốc gia trong vùng có quyền lợi trực tiếp nhưng chưa chọn cách giải
quyết tranh chấp qua phương pháp trọng tài.
Ý nghĩa quan
trọng trong phán quyết là quốc tế hóa được cuộc tranh chấp, tạo khả năng mặc cả
đa phương giữa các bên liên hệ trước một hội nghị hay trước tổ chức trọng tài
quốc tế, giới hạn chiếc bẫy “thảo luận song phương” chỉ nhằm “câu giờ” của
Trung Cộng.
Với những quốc
gia chủ trương quốc tế hóa Biển Đông, chiến thắng của Philippines mở ra cánh
cửa đàm phán xa hơn về quyền lợi và trách nhiệm một cách bình đẳng giữa các
nước trong vùng.
Với các cường
quốc Mỹ, Nhật, chiến thắng của Philippines giúp cho họ thêm lý do quốc tế để
can thiệp cụ thể và tích cực hơn trong tranh chấp.
Một cái tát của
PCA chỉ nhắm vào mặt Trung Cộng thôi, đó là việc phủ nhận quan điểm “quyền
lịch sử”, lý luận cốt tủy mà Trung Cộng dùng để biện hộ cho “đường lưỡi bò”
trên Biển Đông.
Như chúng ta
đều biết, trong hầu hết các văn bản, tuyên bố, phát biểu, các lãnh đạo Trung
Cộng luôn nhắc tới nhắc lui câu “quyền lịch sử của Trung Quốc” để cho
rằng 90% của Biển Đông vốn thuộc về Trung Quốc không phải hôm nay mà từ hai ngàn
năm trước.
Nhưng tòa phán:
Tòa nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển, ngư dân từ Trung Quốc và
các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng
nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát
vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây.
Vì vậy, tòa kết
luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài
nguyên tại các vùng biển phía bên trong "đường 9 đoạn.”
Đặng Tiểu Bình
và “quyền lịch sử”
Vào thập niên
1960, Đặng Tiểu Bình là trưởng phái đoàn đại diện Trung Cộng trong đàm phán với
Liên Xô về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực
sông Ussuri.
Khi có phiên
họp, phái đoàn họ Đặng không chỉ mang theo giấy tờ tài liệu mà còn chở theo
nhiều toa xe lửa chứa đầy sách vở và đồ vật để chứng minh “quyền lịch sử”
của Trung Quốc trên các đảo này.
Trung Quốc vốn
là một nước đông dân, diện tích rộng, có nền văn minh phát triển sớm, có chiều
dài lịch sử mấy ngàn năm. Do đó, việc tổ tiên họ đã từng đến, từng đi đánh cá,
từng đặt chân một đôi ngày, từng mô tả trong văn chương thơ phú về các hòn đảo
đó thì cũng không có gì là đáng ngạc nhiên.
Những tài liệu
phía Đặng Tiểu Bình đưa ra hay vật dụng họ góp nhặt được dù bao nhiêu cũng
không thuyết phục Liên Xô hay chứng minh những đảo đó thuộc chủ quyền của Trung
Quốc.
Dĩ nhiên hai
đàn anh cộng sản không đưa tranh chấp ra PCA như ngày nay.
Sau hơn 20 năm
vừa đánh vừa đàm, một hiệp ước biên giới Liên Xô - Trung Cộng đã được ký kết
lần đầu vào tháng 10 năm 1991, lần nữa vào tháng 10 năm 2004 với Nga và lần
cuối cùng vào tháng 7, 2008 cũng với Nga.
Cả Trung Cộng
lẫn Nga đều biết, lý do chính của xung đột trước đây không phải là lãnh thổ, mà
là sự tranh chấp quyền lực của hai nước cộng sản đàn anh trong phong trào cộng
sản quốc tế.
Khi Liên Xô sắp
sụp đổ, chủ quyền trên các đảo vốn không chứng tỏ một tiềm năng kinh tế nào
không còn là yếu tố quan trọng để giằng co, tranh chấp nữa. Cái gọi là “quyền
lịch sử” không đóng vai trò gì trong hiệp ước biên giới giữa Liên Xô và sau
đó là Nga với Trung Cộng.
Tân Hoa Xã giải
thích “quyền lịch sử”
Theo báo Time,
hôm 12 tháng 7, 2015 các đài truyền hình Trung Cộng cho chiếu một số tranh hoạt
họa của Tân Hoa Xã như là cách để giải thích cái gọi là “quyền lịch sử” của
Trung Cộng trên Biển Đông. Một trong số
tranh hoạt họa là mẩu đối thoại ngắn giữa ba con thú đại diện cho ba thành phần
trong vụ kiện.
Một con cáo đại
diện cho PCA, một con khỉ tí hon đại diện cho Philippines và con Panda dễ
thương đại diện cho Trung Cộng. Con Panda trả lời câu hỏi tại sao Trung Cộng có
“quyền lịch sử”, bởi vì “chúng tôi đã giong buồm và đánh cá trên Biển
Đông ngay cả trước khi Chúa Jesus ra đời.”
Việc cho rằng
người dân Trung Hoa đã từng “giong buồm và đánh cá” nên Biển Đông thuộc
Trung Cộng nghe phi lý đến mức buồn cười; tuy nhiên, đây lại là lý luận chiến
lược mà Trung Cộng áp dụng trong đàm phán biên giới từ ngày lập quốc cộng sản
năm 1949 tới nay.
“Quyền lịch sử” của Trung Cộng
đúng như PCA phán quyết không có giá trị gì nhưng với không ít dân Trung Cộng
bị tuyên truyền tẩy não, đó lại là quyền “thiêng liêng, bất khả xâm phạm.”
Quan điểm cực
đoan Đại Hán này là sản phẩm của bộ máy tuyên truyền bắt đầu từ thời Đặng Tiểu
Bình và nâng lên thành “Giấc Mơ Trung Quốc” dưới thời Tập Cận Bình. Họ Đặng
và nay họ Tập cho rằng Trung Cộng không chủ trương xâm lược quốc gia nào hay
dân tộc nào mà chỉ thu hồi lãnh thổ và lãnh hải vốn thuộc Trung Quốc.
Lý luận ngụy
biện và điên cuồng này là bản sao quan điểm của Hitler đã dùng để khai mào cho
Thế Chiến thứ Hai khi y cho rằng Đức chỉ nhằm “phục hồi những lãnh thổ vốn
thuộc về Đức nhiều thế kỷ.”
Tương tự, khẩu
hiệu “100 năm sỉ nhục” được các lãnh đạo Trung Cộng dùng làm củi để đun
lò lửa dân tộc cực đoan tại Trung Cộng cũng không khác gì lời lẽ Hitler đã viết
về hiệp ước Versailles trong Mein Kampf: “Mỗi điểm của hiệp ước đã
ghi sâu vào ý thức và con tim của dân tộc Đức và đốt cháy họ cho đến khi tâm
hồn của sáu chục triệu dân bùng lên ngọn lửa công phẫn và nhục nhã.”
Như vừa viết ở
trên, ngay cả việc người dân Trung Hoa hai ngàn năm trước đã thật sự có giong
buồm trên Biển Đông, có ghé Hoàng Sa, Trường Sa vài hôm để bắt yến, tức cảnh
sinh tình hạ bút vài câu thơ và được đời sau ghi chép lại cũng không thể cho
rằng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quyền lịch sử của Trung Cộng.
Lịch sử thế
giới để lại vô số tài liệu của các nhà thám hiểm, thăm dò, kể cả dấu tích của
đoàn viễn chinh lừng danh Viking do Leif Erikson chỉ huy từng khám phá ra Bắc
Mỹ vào thế kỷ 11 trước Christopher Columbus vào thế kỷ 15. Nhưng không tổ chức
quốc tế nào căn cứ vào các tài liệu lưu trữ để cho rằng chủ quyền biển đảo của
một quốc gia phát xuất từ người đã thăm dò, thám hiểm hay khám phá ra vùng đất
đó.
Một lãnh thổ,
đất hay đảo, của một quốc gia phải là lãnh thổ được phát hiện, chiếm hữu, điều
hành trong hòa bình, có tính pháp lý, đơn vị hành chánh chính thức, được ghi
lại trong bản đồ của quốc gia đó và được quốc tế công nhận chứ không phải cưỡng
chiếm bằng võ lực như Trung Cộng đã làm đối với Philippines và Việt Nam.
Tập Cận Bình,
kẻ nuôi cọp đang lo cọp sẽ ăn thịt mình, do đó, không lạ gì trong thời gian
ngắn tới đây, y vẫn sẽ tuyên bố hung hăng kể cả những hành động gây hấn với các
nước láng giềng để xoa dịu lò lửa cực đoan Đại Hán tại lục địa nhưng chính y
cũng biết gió đã đổi chiều.
“Quyền lịch sử” của Trung Cộng
về chủ quyền trên Biển Đông thực chất chỉ là quyền ăn cướp.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.