Đường đi chằng chịt của chiếc Hải Dương Địa Chất 8 Trung Quốc tại bãi Tư Chính của Việt Nam từ ngày 3 đến 28/07/2019. |
Trước sự kiện Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải
Dương Địa Chất 8 cùng với nhiều tàu hải cảnh cỡ lớn xâm phạm bãi Tư
Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, các tổ chức xã
hội dân sự Việt Nam đã ra Tuyên bố về Biển Đông. Cho đến sáng hôm qua 29/07/2019 đã có 14 tổ chức và khoảng 750 người ký vào tuyên bố.
RFI Việt ngữ đã trao đổi với phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng, trường
đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc nhóm chủ trương bản tuyên
bố trên, về vấn đề này.
RFI: Kính
chào Phó giáo sư Hoàng Dũng. Như vậy là một lần nữa Trung Quốc lại xâm
phạm biển đảo Việt Nam, và một lần nữa các tổ chức xã hội dân sự lại
phải ra tuyên bố…
PGS Hoàng Dũng
: Sở dĩ chúng tôi đề nghị phải lên tiếng tố cáo trước Hội đồng Bảo an,
trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế về việc Trung
Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam và thềm lục địa của Việt Nam, vì khi có
trộm cướp xâm nhập, thì điều đầu tiên là chủ nhà phải la làng. Nếu không
la làng, không chỉ rõ là ai xâm phạm nhà anh một cách bất hợp pháp,
chính anh không kêu lên thì ai có thể cứu anh được. Làm sao thuyết phục
người khác là anh có chính nghĩa.
Bên cạnh đó còn đề
nghị chuẩn bị kiện Trung Quốc. Không ít người cho rằng Philippines tuy
thắng kiện nhưng vẫn không làm gì được Trung Quốc, vậy Việt Nam đi kiện
liệu có lợi gì không, ông thấy ý kiến này như thế nào ?
Ý
kiến đó không đúng đâu, vì kiện chỉ là một khâu trong những việc cần
phải làm. Nếu coi kiện là khâu cuối cùng, đến đó là xong, suy nghĩ này
mới là sai lầm ; còn nếu coi kiện chỉ là bước khởi đầu thôi, thì rất
đúng. Đây là việc cần phải làm. Không thể để kẻ cướp vào nhà mà không
chịu la lên, không đưa ra trước công luận. Mà tên cướp này cũng đặc
biệt, người ta đã la làng đến như thế mà vẫn cố cãi !
Trước mặt
công luận Trung Quốc khó lòng biện bạch được, khi đã có phán quyết của
một tòa án quốc tế rằng việc làm của họ là sai trái. Trung Quốc càng cố
cãi, càng mất uy tín trước công luận.
Thưa ông, không
chỉ tố cáo trước quốc tế, có lẽ còn cần tuyên truyền rộng rãi hơn. Bản
tin của các hãng thông tấn thường gọi là vùng tranh chấp, trong khi đây
là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chứ không phải là vùng tranh
chấp…
Đúng, đặt vấn đề như vậy rất chính xác. Nếu
nói vùng tranh chấp tức là chúng ta rơi vào cái bẫy của Trung Quốc. Họ
muốn biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, và khi đã có
tranh chấp thì phải có nhân nhượng. Đương nhiên là chủ nhà nhân nhượng,
thành ra thằng ăn trộm ít nhiều cũng vơ được cái gì đó.
Trước hành
động của Trung Quốc thì Việt Nam lần này đã hành xử khác với tất cả
những lần trước. Một là đi đến động thái được coi là mạnh mẽ trong ngoại
giao : trao công hàm phản đối. Thứ hai là nêu đích danh Trung Quốc.
Chắc là những người có trách nhiệm ở Việt Nam cũng đã trải qua giai đoạn
phân vân.
Lúc đầu thì lên tiếng nói đó là vùng biển của Việt
Nam, lên án mọi sự xâm phạm nhưng không hề nhắc đến Trung Quốc. Nhưng
đến lần thứ hai sau đó vài ngày thì thái độ rất khác, nói thẳng tên
Trung Quốc, một điều hiếm có. Và điểm đáng lưu ý là theo tin của chính
đài RFI, Trung Quốc đề nghị Việt Nam rút các giàn khoan ở bãi Tư Chính
về, thì họ sẽ rút tàu Hải Dương Địa Chất đi. Thế nhưng bằng hành động,
Việt Nam đã dứt khoát bác bỏ. Việt Nam đã công bố gia hạn thời gian làm
việc của các giàn khoan ở bãi Tư Chính. Đó là điều chưa từng có.
Một
mặt chính quyền không thể nào không lên tiếng, nếu không sẽ mất đi tính
chính danh với nhân dân. Anh là người quản lý đất nước, ăn lương từ
tiền thuế dân đóng góp, thế nhưng khi có kẻ cướp vào nhà anh im tiếng
thì rõ ràng sẽ mất uy tín.
Tuy nhiên qua nhiều lần như vậy người
dân phản ứng bằng cách đi biểu tình. Mà biểu tình không chỉ ở một số
nơi, mà lan rộng trên phạm vi cả nước. Chính cái đó làm nhà nước sợ. Nhà
nước một mặt cần nhân dân ủng hộ trong động thái mạnh mẽ đối với Trung
Quốc, nhưng mặt khác lại sợ sự ủng hộ đó biến thành hành động biểu tình,
dẫn đến nhiều chuyện không kiểm soát được. Chính vì thế trong nội dung
tuyên bố, chúng tôi cũng đặt ra những vấn đề về dân chủ.
Phó giáo sư Hoàng Dũng
Nhưng
cho tới nay vẫn chưa có lời kêu gọi biểu tình nào, có lẽ người dân bất
mãn vì những lần xuống đường chống Trung Quốc trước đây đã bị chính
quyền trấn áp ?
Đúng, chúng tôi thấy điều đó rất
đáng suy nghĩ. Người dân yêu nước phải theo cách nhà nước quy định. Đi
biểu tình thực ra phù hợp với Hiến pháp, nhưng không được nhà nước cho
phép. Yêu nước không có giấy phép thành yêu nước « lậu », và « lậu » thì
người ta trừng trị. Trong việc trừng trị tội yêu nước « lậu » ấy, nhà
nước rất nặng tay. Chúng ta thấy không hiếm những hình ảnh người đi
biểu tình bị đánh.
Tôi nhớ một anh bạn là kỹ sư Trần Bang trong
một cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã bị đánh máu me đầy mặt trên đường
phố Sài Gòn. Chính những cái đó làm cho khi nhà nước lên tiếng mạnh mẽ
như vậy, chỉ có báo chí lề phải nói thôi, còn người dân im lìm không có
một động thái nào cả. Điều đó người nào có trách nhiệm quản lý đất nước
phải suy nghĩ, và tôi cho rằng họ phải duyệt xét lại toàn bộ chiến lược
đối với người dân trong mối liên quan đến chống Trung Quốc như thế nào.
Có lẽ cần phải ban hành luật biểu tình, một đạo luật cần thiết mà lâu nay vẫn chưa ra được ?
Trong
một chế độ như ở Việt Nam nếu có luật biểu tình đi nữa thì thực chất đó
là luật chống biểu tình, tức là họ làm thế nào hạn chế được biểu tình
nhiều nhất. Chính vì họ chưa tìm được cách làm sao cho hiệu quả nên
người ta không công bố được. Chứ nếu luật biểu tình thực chất là tạo
điều kiện cho người dân biểu tình, thì tôi cho là đơn giản hơn rất
nhiều.
Thưa ông vì sao lại đòi hỏi tăng cường hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ ?
Ngày
nay một nước mạnh như Mỹ còn phải đặt vấn đề hợp tác, huống gì một nước
nghèo và yếu như Việt Nam. Ai cũng thấy rằng một bên là Việt Nam, một
bên là Trung Quốc, thì sức mạnh hết sức chênh lệch. Cho nên việc hợp tác
với các quốc gia khác là điều dễ hiểu và tất yếu.
Trên thực tế
nếu liên minh được với Hoa Kỳ sẽ là sức mạnh răn đe tốt nhất đối với
Trung Quốc. Bởi vì Hoa Kỳ có quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông và có đủ
sức mạnh để Trung Quốc phải kiêng dè. Các nước khác đương nhiên cũng cần
phải hợp tác, nhưng mạnh mẽ nhất phải là với Mỹ. Vì thế trong tuyên bố ở
điều số 3, quốc gia đầu tiên chúng tôi nhắc đến là Mỹ. Còn các nước
khác dùng cụm từ chung hơn, là các nước tôn trọng luật pháp quốc tế.
Có
nhiều ý kiến cho rằng có lẽ chính quyền Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng hợp
tác với Mỹ vì sợ phản ứng của Trung Quốc ở sát bên cạnh ?
Tôi
không thấy như vậy. Tôi thấy Việt Nam bắt đầu có xu hướng xích gần lại
với Mỹ, ngay cả trong lãnh vực quốc phòng. Mới gần đây thôi Việt Nam
tiếp nhận một số tàu cho cảnh sát biển, việc này có ý nghĩa biểu tượng
lớn chứ không phải nhỏ đâu. Tuy mình cho rằng việc hợp tác như vậy là
quá chậm so với yêu cầu, nhưng không thể không khẳng định xu hướng hợp
tác ngày càng mạnh hơn so với trước.
Hiện nay thông
tin về xung đột ở Biển Đông trên báo chí quốc tế không nhiều, hầu hết
tập trung vào Trung Đông. Phải chăng Trung Quốc có tính toán đến khi xâm
phạm vùng biển Việt Nam vào lúc này ?
Việc chọn lựa
thời cơ thì Trung Quốc là nước trong quá khứ được coi là bậc thầy.
Chẳng hạn xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, họ chọn thời
điểm đối với Việt Nam rất bất lợi. Cho nên lần này việc họ chọn lúc các
cường quốc trên thế giới phải lưu tâm đến nhiều chuyện khác để phân tán
sự chú ý tới Biển Đông, là chuyện rất dễ hiểu.
Tôi hoàn toàn tán
thành suy nghĩ Trung Quốc khi đưa tàu đến bãi Tư Chính là họ đã chọn
thời điểm. Có điều thời điểm đó là một sự lăng nhục Việt Nam, vì ta nhớ
rằng vụ bãi Tư Chính nổ ra đúng lúc chủ tịch Quốc Hội Việt Nam đang thăm
Trung Quốc. Một nước luôn luôn nói rằng « 4 tốt 16 chữ vàng » với Việt
Nam, nhưng lại lợi dụng đúng lúc người ta đến thăm cấp cao, lại đi xâm
phạm đất đai của vị thượng khách ấy. Tôi cho rằng điều đó là hết sức trơ
tráo !
Việt Nam cho tới bây giờ đã làm tất cả những
gì có thể làm được, nhưng đến hôm nay tàu Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt
động ở bãi Tư Chính. Trong thế giới đảo điên ngày nay, đành để cho luật
của kẻ mạnh ngự trị ?
Tất nhiên Trung Quốc là kẻ
mạnh, nên khi Việt Nam hô hoán trước công luận thế giới, Trung Quốc vẫn
ngang nhiên bỏ qua. Nhưng vấn đề là Việt Nam rút ra kinh nghiệm gì để
đối phó với Trung Quốc. Tôi cho rằng đây là điều may cho Việt Nam, khi
Trung Quốc quá ngoan cố như vậy ! Trong khi Việt Nam đã dùng tất cả
những biện pháp hòa bình mà vẫn không đạt được mục tiêu, thì đó là một
sức ép đẩy lãnh đạo Việt Nam phải dùng những biện pháp như hợp tác mạnh
mẽ hơn nữa với các nước khác, nhất là Mỹ. Kẻ mạnh chỉ sợ khi nào đối thủ
của họ tỏ ra mạnh hơn.
Và một điều không thể thiếu khi muốn chống ngoại xâm là lòng dân ?
Đúng,
ngay đề nghị đầu tiên của chúng tôi là như thế. Là phải tăng cường nội
lực của đất nước làm chỗ dựa cho quốc phòng, thực hiện kế sách giữ nước
của Đức thánh Trần Hưng Đạo khoan sức dân…Như vậy việc đầu tiên chúng
tôi đặt ra là nội lực hợp tác nước này nước kia nhất định phải làm nhưng
không chỉ trông cậy vào đó quan trọng là thực sự anh có mạnh không chỉ
có thể làm được nếu có chính sách nội trị tốt cho nên việc nhà nước đứng
ra chống chọi với Trung Quốc sẽ cảm thấy tự tin vì sau lưng là cả một
đất nước cả một dân tộc
RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của chúng tôi hôm nay.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.