Xuống đường phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa tại Sài Gòn - Ảnh: Báo Quảng Nam |
(Một Thế Giới 18/01/2018) Ngay sau khi cuộc hải chiến diễn ra, Ngoại trưởng VNCH lên án
Trung Quốc: “đã xâm chiếm các phần lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và bắt đi một
cách trái phép 121 binh sĩ của Quân lực VNCH".
Sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam ngày 19.01.1974 đến nay vẫn để lại những xúc cảm khi Tết đến, cũng là
một thời điểm cái Tết đến cận kề lúc bấy giờ khi vụ tranh chấp này xảy ra. Đặc
biệt, những năm gần đây khi tình hình tranh chấp Hoàng Sa nói riêng và trên
biển Đông nói chung càng phức tạp trong một bối cảnh mới, đã đặt ra những câu
hỏi có nên hay không nên công nhận là người có công với Tổ quốc đối với những
chiến sĩ Hải quân của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) lúc bấy giờ đã chiến
đấu và bỏ lại thân thể của mình ngoài vùng biển Hoàng Sa? Dù câu trả lời như
thế nào đi chăng nữa, bài viết này đề cập đến việc trao trả các binh sĩ VNCH bị
Trung Quốc bắt giữ, thông qua nguồn tư liệu báo chí đương thời, sẽ làm rõ tính
chính nghĩa về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này và ý chí bảo vệ chủ
quyền có tính kế tục lịch sử của chính quyền đương thời.
Ngay sau khi cuộc hải chiến diễn ra, Ngoại trưởng VNCH lên án
Trung Quốc “đã xâm chiếm các phần lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và bắt đi một
cách trái phép 121 binh sĩ của Quân lực VNCH, vì vậy Trung Cộng (cách gọi Trung
Quốc của báo chí miền nam trước 1975 - NV) phải có nhiệm vụ trả tự do ngay cho
các người này, chứ không cần phải có một thời gian nào đó thuận tiện” (1).
Dưới áp lực về ngoại giao và tổ chức Hồng Thập Tự quốc tế, Trung Quốc đã tiến hành
trao trả tổng số 48 tù binh (2), nhưng không được trao trả 1
đợt mà thành 2 đợt và tổ chức trong im lặng.
Đợt thứ nhất được trao trả vào ngày 31.01.1974 có 5 tù binh, “gồm
4 chiến sĩ VNCH và 1 người Mỹ tại Shumchun thuộc biên giới tỉnh Quảng Đông và
Hương Cảng” (3). Đợt thứ hai vào ngày 17.02.1974 có “43
tù binh VNCH vừa được Trung Cộng thả hôm Chủ nhật có thủy thủ Lý Chánh Hùng
người Việt gốc Hoa”(4). Trong số đó “có 13 hải
quân, 23 chiến sĩ địa phương quân, 4 chiến sĩ công binh và 3 nhân viên khí tượng
thuộc Đài khí tượng Hoàng Sa” (5). Trong đợt trao trả thứ
nhất, chỉ có 5 tù binh (trong đó có 1 người Mỹ), đồng nghĩa với việc liên quan
đến quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ, điều này sẽ tác động quyết định đến việc
Trung Quốc cần trao trả càng sớm càng tốt. Trong lần trao trả thứ hai, “có
thủy thủ Lý Chánh Hùng người Việt gốc Hoa. Vì anh ấy là tù binh duy nhứt nói
được Hoa ngữ nên anh đã làm thông dịch viên cho tù binh VNCH. Thủy thủ Lý Chánh
Hùng nói rằng anh không muốn ở lại Hoa lục vì mỗi ngày anh và các đồng đội phải
trải qua 3 tiếng đồng hồ tuyên truyền chính trị của Trung Cộng mặc dù Trung
Cộng cho ăn uống khá” (6), nghĩa là Trung Quốc cần giam giữ
tù binh trong thời gian lâu hơn và có người Hoa để “tuyên truyền chính trị”
nhằm xuyên tạc những sự thật lịch sử. Và, vô hình trung làm lộ rõ sự “bất
chính” của Trung Quốc đối với sự kiện hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm
1974.
Bên cạnh đó, thái độ của Trung Quốc và tổ chức Hồng Thập Tự quốc
tế muốn quá trình trao trả tù binh càng yên lặng càng tốt với lý do là vì
sự
tế nhị của biến cố Hoàng Sa.
Các nhà báo của VNCH đi theo đoàn thực hiện trao trả, các báo tại Trung Quốc
cũng như báo quốc tế đã không được phép tiếp cận các tù binh. “Hồng Thập Tự
quốc tế muốn việc thả tù càng yên lặng càng tốt. Số người tiếp đón phái đoàn
không quá 10 vì hệ thống an ninh tại phi trường Kaitak (7) được
tăng cường tối đa, không một ai vô phận sự cần thiết được lọt vô khu vực phi cơ
hàng không Việt Nam đậu, kể cả các nhà báo tại Hương Cảng (tức Hồng Kông).
Khoảng hơn 10 phóng viên Việt Nam tháp tùng phái đoàn đi đón các chiến sĩ VNCH
đã bị “giam lỏng” gần 2 giờ đồng hồ. Phái đoàn viên phi hành vào nhà ga được
các nhân viên tại đây hỏi han lung tung về chuyến bay đặc biệt này. Khi đó họ
mới vỡ lẽ ra, vì từ trước họ chỉ biết hôm nay có cuộc trả tự do tại biên giới
Trung Cộng, Hương Cảng, chớ không hay gì về vụ đón người của Việt Nam Cộng Hòa” (8).
Căn cứ vào thái độ của các nước có liên quan, vào số lần, sự im lặng bất thường
và “tuyên truyền chính trị” đối với tù binh cho thấy đằng sau đó là sự “e
dè”, “bất chính” của Trung Cộng khi bị lên án vì dùng vũ lực xâm chiếm
Hoàng Sa, đồng thời đó là thái độ của Mỹ muốn sự việc nhanh chóng được khép lại
trong “lặng lẽ” một khi Mỹ có được một thế cấn bằng tạm ổn ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
Ngược lại, chính quyền VNCH muốn “đường đường chính chính” việc
trao trả tù binh phải diễn ra công khai và được báo chí xâm nhập để chứng minh
tính “chính nghĩa” và là một “nạn nhân” như thế nào. Việc này
VNCH không thể làm theo ý mình vì việc trao trả tù binh diễn ra trên ở Trung
Cộng và do họ quyết định thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, chính quyền VNCH đã
chứng minh tính “chính nghĩa” bằng cách khác là tổ chức đón tiếp các
chiến sĩ tham chiến khi về Việt Nam và thưởng cho họ một cách nồng hậu, các chiến sĩ trở thành
đại diện cho ý chí của Việt Nam trong việc chiến đấu để bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước hết là đối với các chiến sĩ chiến đấu trở về nhưng không
bị bắt làm tù binh, thì ngày 30.1.1974 (số này không nằm trong 48 tù binh bị
Trung Quốc bắt giữ, mà nằm trong tổng 121 như đã trình bày ở trên), “tuần
dương hạm Lý Thường Kiệt về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch
Đằng với sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ đoàn. Đề đốc Trần Văn Chơn, Tư
lệnh Hải quân VNCH đã trao Anh Dũng Bội tinh cho Trung tá Lê Văn Thứ, Hạm
trưởng HQ.16 cùng một số sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên thủy thủ. Các nữ sinh
cũng choàng vòng hoa chiến thắng và sau đó các thân nhân thủy thủ đoàn được mời
lên thăm chiến hạm” (9). Đối với các tù binh
được trao trả, khi về đến Sài Gòn, có “một buổi lễ tiếp đón vô cùng
long trọng sẽ được Phủ TUDV (Tổng ủy Dân vận) phối hợp với Tổng cục CTCT (Chiến
tranh Chính trị) và các Tòa Đô chánh tỉnh Gia Định, với sự tham dự các đoàn thể
sinh viên học sinh của các Hội đồng dân cử, các thân hào nhân sĩ tổ chức ngay
tại phòng khách Danh dự phi trường Tân Sơn Nhất” (10).
Đồng thời, để “tưởng thưởng những chiến sĩ Hải quân can
trường chiến đấu tại Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao có một phái đoàn do ông Nguyễn
Hoàn, Tổng Thư ký Bộ Ngoại giao hướng dẫn đã đến Bộ Tư lệnh Hải quân trao tặng
một ngân phiếu một triệu đồng cho các thương binh và gia đình của tử sĩ Hải
quân tham chiến tại Hoàng Sa ngày 19.01.1974 vừa qua. Cũng trong dịp này, ông
Hoàn đã ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng, lòng hy sinh quả cảm cũng như sự
chiến thắng vẻ vang của các chiến sĩ Hải quân (...) để bảo vệ chủ quyền và sự
bảo toàn lãnh thổ của VNCH. Ngoài ra, để ghi ơn các anh hùng tử sĩ can đảm đã
ngã gục lại hải đảo Hoàng Sa trong chiến trận vừa qua, tên tuổi của một số anh
hùng có thể sẽ được chính quyền chấp thuận cho đặt tên một số đường phố tại Thủ
đô” (11).
Như vậy, thông qua những thông tin mà báo chí lúc bấy giờ đề cập
việc trao trả binh sĩ đã nói lên hai vấn đề: Một là, chính quyền VNCH có những
phản ứng mạnh mẽ để khơi dậy tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Hải quân, thể
hiện sự đồng thuận cao giữa chính quyền và các chiến sĩ cùng như các tầng lớp
khác nhau trong xã hội đối với việc bảo vệ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa. Hai
là, thông qua thái độ của Trung Quốc trong việc lợi dụng giam giữ các binh sĩ
để tuyên truyền lén lút “bất chính” về chủ quyền của họ tại Hoàng Sa,
đồng thời họ muốn sự việc diễn ra trong im lặng, là “việc đã rồi”, để
giữ nguyên tình hình nhằm thực hiện chính sách bành trướng của mình trong bối
cảnh tình hình thế giới lúc bấy giờ.
Võ Hà (Hội KHLS TP. Đà
Nẵng)
===
[1] “Ngoại trưởng Bắc đòi trao trả ngay 121 binh sĩ quân lực
Việt Nam Cộng hòa bị Trung Cộng bắt giữ”, Tia Sáng, ngày 28.01.1974.
[2] Con số 121 mà chính quyền VNCH đưa ra bao gồm tù binh, mất
tích và bị trôi dạt trên biển chưa liên lạc được, chính quyền VNCH đưa ra như
vậy bao hàm cả ý nghĩa đấu tranh ngoại giao, trên thực tế VNCH chưa thống kê
được số lượng binh sĩ mất tích trên biển nên gộp chung lại thành số lượng tù
binh. Trung Quốc thông báo chỉ giữ 48 tù binh.
[3] “Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đặt trọng tâm
vào nội lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia Sáng, ngày 31.01/.1974. Người Mỹ
này tên là Gerald Emil Kosh, 27 tuổi làm việc cho Bộ Quốc phòng Mỹ đang giữ
nhiệm vụ liên lạc với Hải quân Việt Nam tại Đà Nẵng, tới Hoàng Sa ngày 15.01
trong một chuyến công tác thường lệ.
[4] “Mỹ đang giúp Việt Nam Cộng hòa trinh sát quần đảo Hoàng Sa,
43 chiến sĩ bị Trung Cộng bắt đã về tới Sài Gòn”, AP, ngày 17.02.1974.
[5] Boeing 727 của H.K.VN sẽ đi Hồng Kông sáng 17.2 tiếp đón”,
Tia Sáng, ngày 18.02.1974.
[6] “Mỹ đang giúp Việt Nam Cộng hòa trinh sát quần đảo Hoàng Sa,
43 chiến sĩ bị Trung Cộng bắt đã về tới Sài Gòn”, nđd.
[7] Phi trường Kaitak thuộc địa phận Hương Cảng (Hồng Kông), nằm
giáp biên giới Shumchun (Quảng Đông).
[8] “Chuyến đi đón 5 binh sĩ do Trung Cộng thả: cả phái đoàn bị
Giam lỏng ở sân bay Kaitak”, Điện Tín, ngày 02.02.1974.
[9] “Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đặt trọng tâm
vào nội lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia Sáng, ngày 31.01.1974.
[10] “Boeing 727 của H.K.VN sẽ đi Hồng Kông sáng 17.2 tiếp đón”,
nđd.
[11] “Bộ Ngoại giao tặng các chiến sĩ Hải quân tham chiến đảo
Hoàng Sa một triệu đồng”, Tía Sáng, ngày 16.02.1974.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.