mercredi 5 mai 2021

Một văn bản được lưu giữ 30 năm : Báo cáo của Bùi Văn Tùng, Phần 1


Đôi lời : Đây là tài liệu được tác giả Le Dao đăng trên trang Facebook Lính Xe Tăng ngày 03/05/2021. Nội dung này đã được đăng vào ngày 30/04/2020, nay được « ghim » lại, TM chỉ chỉnh sửa chấm phẩy và chính tả. Bên cạnh vấn đề công trạng, sự thật lịch sử, còn cho thấy sự chiến đấu kiên cường của những người lính VNCH trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.

LEDAO : Phát hiện trong thư viện gia đình của Ông ĐÀO VĂN XUÂN (nguyên phó Chính ủy Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp có một bản báo cáo của Chính ủy BÙI VĂN TÙNG đề ngày 30/5/1990. Văn bản này được đánh máy chữ gồm 08 trang giấy pơluya (loại giấy sử dụng cho đánh máy chữ, dùng giấy than vào thời điểm 1990).

Qua nội dung thư tay của Chính ủy Bùi Văn Tùng gửi Ông Đào Văn Xuân (kèm theo văn bản) thì được biết văn bản này là của Chính ủy Bùi Văn Tùng và chỉ có hai bản. Một bản gửi Viện Lịch sử Quân sự thuộc Bộ Quốc phòng và một bản gửi ông Đào Văn Xuân - có tính chất thông báo, xin ý kiến và để ông Đào Văn Xuân lưu giữ. Đây chính là văn bản mà ông Đào Văn Xuân đã nhắc đến trong thư gửi ban Biên tập báo "Xưa và nay" năm 2006.

Văn bản có tính chất báo cáo tường thuật sự việc này (năm 1990) có trước rất lâu (trước 17 năm), trước khi cuốn sách "THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - GIỜ KHẮC SỐ KHÔNG’’ của nhà báo Tây Đức được đạo diễn Phạm Việt Tùng phát hiện, được Báo Tuổi Trẻ dịch  đăng năm 2007 (nhân chứng thứ ba) và chính thức có giấy phép xuất bản và phát hành năm 2010.

Nguyên nhân tại sao có văn bản này (một dạng báo cáo) từ năm 1990 (Chính ủy Bùi Văn Tùng nghỉ hưu năm 1984) thì qua bản thư tay của Chính ủy Bùi Văn Tùng không nhắc đến. Và đến nay một nguòi đã trên 90 tuổi, lại bị tai biến nhiều lần, một người thì đã về với tổ tiên nên không tìm hiểu được.

Thôi thì bất ngờ thấy tài liệu này thì cứ đưa lên để cùng đọc và cùng đi tìm đến sự thật một cách trung thực, khách quan và không làm tổn thương, xúc phạm đến bất cứ ai - những người trong cuộc. Vì văn bản dài, gần như tường thuật về sự kiện, nên dẫn lại sẽ chia làm hai phần cho dễ đọc.

P/s : Vì đây là tài liệu cá nhân nên đã xin phép gia đình Chính ủy Bùi Văn Tùng. Gia đình cho biết gia đình không có tài liệu này, và xác nhận bút tích thư tay chính là của Chính ủy Bùi Văn Tùng. Vì tài liệu gửi cho Ông Đào Văn Xuân nên toàn quyền sử dụng tài liệu là do ông Đào Văn Xuân (nay là gia đình) quyết định.

Dưới đây là Nội dung văn bản.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC

                                        Thành phố Hồ Chí Minh  Ngày 30 tháng 5 năm 1990

           KÍNH THƯA

Về sự kiện trưa ngày 30/4/1975 tại phủ tổng thống ngụy quyền Sài Gòn và tại đài phát thanh Sài Gòn (cũ), với tôi đó là trách nhiệm chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh về chính trị Bộ tư lệnh Quân đoàn giao cho và với lương tâm của mình bắt Dương Văn Minh đầu hàng càng sớm càng đỡ tốn xương máu.

Để đánh chiếm một trong năm mục tiêu quan trọng bậc nhất, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 quyết định lấy Lữ đoàn xe tăng 203 tổ chức thành Lữ đoàn cơ giới đặc nhiệm được phối thuộc thêm I tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 tiểu đoàn công binh dưới sự chỉ huy trực tiếp của bộ chỉ huy lữ đoàn với nhiệm vụ : sau khi bộ binh ở Nước Trong mở xong cửa mở, lữ đoàn có nhiệm vụ tấn công trong thành tiến đánh lướt nhanh qua các mục tiêu trên đường tiến công tiến thẳng vào đánh chiếm Phủ tổng thống ngụy là nhiệm vụ trước mắt.

Nhiệm vụ tiếp sau theo trục lộ 4 cùng các đơn vị bạn tham gia tấn công giải phóng Cần Thơ nếu kẻ thù ngoan cố chạy về phía tây. Theo lệnh quân đoàn chúng tôi phối thuộc cho 3 sư đoàn bộ binh, mỗi sư 1 đại đội xe tăng để dánh chiếm vòng ngoài từ Nước Trong – Long Thành, Cát Lái – Bà Rịa, Vũng Tàu với chiều dài gần 80 cây số để mở cửa cho pháo 130 ly vào chiếm trận địa tại Nhơn Trạch và cho lữ đoàn chúng tôi thọc sâu vào Sài gòn theo nhiệm vụ đã quy định.

Trưa 29/4 sư đoàn bạn mới mở xong cửa ở Nước Trong nhưng vì không tổ chức truy kích, nên chúng tôi hành tiến đến sông Buông thì cầu đã bị địch phá sập. Lập tức công binh quân đoàn tiến lên sửa chữa cầu. Tại đông cầu sông Buông tối 29/4, đồng chí thiếu tướng tư lệnh Nguyễn Hữu An và đồng chí Đại tá Công Trang phó chính ủy quân đoàn còn tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ cho tôi và đồng chí Nguyễn Tất Tài về công việc đánh chiếm dinh Độc Lập (bài đồng chí Công Trang kể, Hồng Lân ghi, báo QĐND số 5389 ngày 30/4/1976) và liên tiếp có mệnh lệnh trên điện đài và bằng giấy (có bản sao chụp kèm theo) theo dõi cuộc tấn công trong hành tiến của chúng tôi mà nhiệm vụ được giao từ đầu.

Khi tiến qua cầu sông Đồng Nai chúng tôi gặp đồng chí Tống Viết Dương chỉ huy đặc công miền (B2) đang chiếm giữ các cầu trên xa lộ, đề nghị đồng chí Tài cho đặc công lên xe tăng cùng tham gia chiến đấu vì các đồng chí rất thạo đường sá ở Sài Gòn. Chúng tôi đồng ý. Chúng tôi là quân cơ động của Bộ hoạt động ở chiến trường Quảng Trị, nay tấn công vào một thành phố lớn trong tay của lữ đoàn trưởng chỉ có một bản đồ cũ do quân đoàn phát cho, đường sá thay đổi nhiều, xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa không có trong bản đồ. Khi lữ đoàn chúng tôi tham gia giải phóng Đà Nẵng, tôi có xin được bản đồ lộ trình xe buýt Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định, nên trong mệnh lệnh tấn công vào Sài Gòn tất cả cán bộ chiến sĩ trong lữ đoàn đều hiểu rõ : ‘Đến ngã tư Hàng Xanh quẹo trái theo đường Hồng Thập Tự (Xô Viết Nghệ Tĩnh ngày nay) đánh chiếm 7 ngã tư quẹo trái là dinh Độc Lập’.

Trên đường hành tiến chúng tôi bị đánh chặn tại Long Bình, ngã ba Vũng Tàu. Chúng lại dùng pháo bắn chặn dọc đường. Chúng tôi phải cho xe tăng vào đánh chiếm trường Thủ Đức (Trường Cây Mai). Tại đó bộ đội xe tăng đánh rất dũng cảm chiếm được khu vực trường và xe tăng 707 đã đánh địch đến viên đạn cuối cùng và hy sinh đến người chiến sĩ xe tăng cuối cùng. Nhân dân khu vực này đã chôn cất và lập đền thờ anh em (Xã Tăng Nhơn Phú anh hùng).

Trận chiến đấu ác liệt nhất là trận đánh chiếm và vượt cầu Sài Gòn. Chúng tôi nhận lệnh của tư lệnh quân đoàn là phải nhanh chóng chiếm và vượt cầu với bất cứ giá nào, không để địch đánh sập cầu. Tiểu đoàn 1 xe tăng dẫn đầu đội hình ra lệnh hai xe tăng T54 đi đầu tăng tốc độ vượt cầu. Cả hai xe tăng của ta đều bị chiếc xe tăng M 48 của địch đứng bên tây vòm cầu bắn cháy (cầu Sài Gòn cong nên phía đông cầu chỉ nhìn thấy tháp pháo nhỏ của xe tăng địch).

Chúng tôi ra lệnh cho tiểu đoàn 1 triển khai đội hình để bắn địch bên kia cầu và tàu chiến của chúng trên sông Sài Gòn. Bộ binh phối thuộc cho lữ đoàn cũng cùng tham gia chiến đấu. Đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 Ngô Văn Nhỡ mở cửa nắp xe đứng thẳng người dùng điện đài và cả ký hiệu bằng tay chỉ huy bắn chi viện và vượt cầu. Một loạt đạn bên kia cầu bắn qua trúng đồng chí và đồng chí ngã gục hy sinh trên tháp pháo xe tăng. Đồng chí Trần Minh Công lữ đoàn phó kiêm tham mưu trưởng lên chỉ huy vượt cầu.

Khi xe thiết giáp của tôi tiến cách cầu 2,3 trăm mét, tôi nhìn về phía sau thấy đồng chí Hoàng Đan phó tư lệnh quân đoàn và đồng chí Nam Long phái viên của Bộ ngồi phía sau xe của tôi. Các đồng chí bỏ xe con và leo lên xe thiết giáp chỉ huy của tôi ở Thủ Đức hay ở cầu Rạch Chiếc nhưng tôi không biết. Đơn vị chúng tôi vừa có một xe thiết giáp chỉ huy do lữ đoàn phó Trần Minh Công chỉ huy vừa bị trúng đạn của địch ở cầu nhưng nhẹ còn chiến đấu được, một cán bộ công binh của quân đoàn hy sinh, số anh em phụ trách điện đài vừa hy sinh vừa bị thương. Tôi biết anh Hoàng Đan và Nam Long đi không đúng vị trí chỉ huy, nếu các anh có việc gì tôi phải chịu trách nhiệm, nên tôi mời các anh xuống xe lập sở chỉ huy ở đó.

Tại cầu Sài Gòn sau một đợt chiến đấu ta đã bắn cháy chiếc xe M 48 ở tây vòm cầu. Lửa khói và đạn cháy nổ trong xe bao phủ cả một đoạn cầu nơi chiếc xe đang cháy. Do cầu rộng đồng chí Công đã khéo léo cho đại đội xe tăng của đại đội trưởng Bùi Quang Thận vừa chiến đấu vừa vượt qua khói lửa và đạn đang nổ để chiếm cầu, vì lửa và đạn nổ trong xe không ảnh hưởng gì đối với xe tăng T 54 của chúng ta. Sau đó đội hình cả lữ đoàn của chúng tôi vượt qua cầu.

Địch một số rút chạy về ngã tư Hàng Xanh bắn chặn ta. Tại đây ta bắn cháymột xe tăng của địch. Địch lại chặn ta tại cầu Thị Nghè và cũng tại đây ta bắn cháy một xe tăng M 41 và một xe M 113 của địch. Tuy mệnh lệnh đã chỉ  rõ đường vào Dinh tổng thống ngụy quyền, nhưng trên xe có đặc công và biệt động chỉ đường nên chúng tôi tiến đánh Dinh Độc Lập bằng hai hướng: theo đường Thống Nhất (đường Lê Duẩn ngày nay) và đường Hồng Thập Tự.

Dẫn đầu là hai xe tăng, xe 843 do trưởng xe - đại đội trưởng Bùi Quang Thận và xe 390 do trưởng xe - chính trị viên đại đội Phạm Đăng Toàn. Đến cách Dinh Độc Lập độ ba, bốn trăm mét pháo thủ số 1 xe 843 Thái Bá Minh thấy cờ vàng ba sọc đỏ vẫn đang bay trên nóc dinh Độc Lập, chưa có dấu hiệu gì đầu hàng nên đề nghị trưởng xe cho bắn pháo. Khi phổ biến mệnh lệnh ở nhà chúng tôi đã nói rõ với đơn vị là theo chỉ thị của cấp trên đánh vào Sài Gòn cố gắng với sự tổn thất nhỏ nhất, nên Bùi Quang Thận đã bình tĩnh hô tạm ngừng và ra lệnh lái xe Lữ Văn Hòa tăng tốc độ, đã cùng đã cùng với xe 390 húc đổ cánh cổng sắt trước Dinh tiến thẳng sát thềm nhà.

Đoàn xe tăng tiến thêm mấy chiếc nữa váo Dinh còn chạy theo các đường bao quanh phủ tổng thống ngụy. Thận và một số chiến sĩ nhẩy xuống xe, Thận cầm theo lá cờ cắm trên xe lao nhanh lên cầu thang, không mở được cờ ngụy nên đã xé rách diềm cờ và kéo cờ của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam lên. Lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh mà chúng tôi đã phát cho từng chiếc xe tăng làm ký hiệu và sẽ cắm nơi mục tiêu mình chiếm lĩnh.

Lúc này người chỉ huy có cấp hàm và chức vụ cao nhất của quân đội ta tại Dinh Độc Lập là đồng chí trung tá Nguyễn Tất Tài lữ đoàn trưởng và trung tá Bùi Văn Tùng chính ủy lữ đoàn (chế độ hai thủ trưởng). Nên mọi việc tại Dinh phải trật tự nhất nhất theo kỷ luật quân đội, kỷ luật chiến trường, các cấp dưới thuộc quyền và phối thuộc đều phải chấp hành theo mệnh lệnh của chúng tôi, mặt khác để quân ngụy thấy rõ kỷ luật của quân đội cách mạng.

Đồng chí Phạm Duy Đô quyền đại đội trưởng đặc công theo các xe tăng dẫn đầu vào trước, thấy chúng tôi vào ra báo cáo “Chính phủ ngụy và cả Dương Văn Minh đều ở trong Dinh, mời các thủ trưởng vào giải quyết’’. Thấy chúng tôi vào Dương Văn Minh nói ngay “chúng tôi chờ các ông vào để bàn giao“. Tôi bực mình nói ngay : “Các ông chẳng còn gì để mà giao, chỉ có một việc là đầu hàng không điều kiện“.

Lúc này đồng chí Nguyễn Tất Tài lữ đoàn trưởng, Trần Minh Công, Dương Xuân Tụ lữ đoàn phó lo việc điều chỉnh đội hình quanh Dinh để phòng địch phản kích, phái một bộ phận ra giải phóng Cảng Sài Gòn. Đồng chí Lê Minh, chủ nhiệm chính trị lữ đoàn lo việc trong Dinh và chờ cấp trên vào báo cáo. Tôi thường xuyên được thông báo cấp trên nên biết rằng năm cánh quân đang tiến vào Sài Gòn vì đâu đâu cũng nghe tiếng súng nổ gần, miền Tây Nam Bộ và các đảo chưa giải phóng, nên việc đầu tiên là phải đưa tổng thống ngụy đi đầu hàng không điều kiện càng đỡ tốn xương máu.

Tôi hỏi một người đứng cạnh Minh (sau tôi mới biết đó là Nguyễn Hữu Hạnh): ”Đường dây ra đài phát thanh còn dùng được không ?”. Người ấy nói : “Thưa ông hư rồi“ (Thật ra sau này tôi mới biết là bên đài phát thanh họ chạy hết). Tôi nói với Dương Văn Minh : “Anh phải ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện“. Người ấy nói : “Thưa ông, đại tướng ra ngoài sợ phe đối lập ám hại“. Tôi nói thẳng : “Cả thành phố Sài Gòn quân giải phóng đã tràn ngập, Dương Văn Minh đi là đi với chúng tôi“. Dương Văn Minh ưng thuận. Tôi định đi bằng hai xe thiết giáp, nhưng như các đồng chí đều biết, xe chiến đấu của chúng ta đồng thời cũng làm nhiệm vụ hậu cần xoong nồi lủng củng, ra đường lúc này không tiện. Có một cán bộ rất trẻ đề nghị (I) : ‘’Hay là ta đi bằng hai xe jeep“. Tôi đồng ý.

Đồng chí cán bộ trẻ và một hai bộ đội ta cùng với Minh, Mẫu lên xe đầu. Tôi cùng hai chiến sĩ lên xe sau. Thấy xe rộng một người thấp, đầu hình như búi tó, nói tiếng Việt rất sõi xin đi tôi cho lên xe, tôi tưởng là phóng viên người Nhật (sau này anh Thành Tín Bùi Tín cho tôi biết đó là Hà Huy Đỉnh nhà báo ở Sài Gòn). Một người Âu nói tiếng Pháp hỏi tôi biết tiếng Pháp không, tôi nói tôi biết. Người ấy tự xưng là người Tây Đức sẽ nói tốt cho quân cho quân giải phóng xin đi, tôi cho lên xe và bu theo một vài nhà báo phương Tây nữa.

Đến đài phát thanh không một bóng người, tôi đang lo sợ không hoàn thành được việc. May sao có mấy sinh viên, thanh niên (sau này người ta gọi là thanh niên sinh viên 30 tháng 4) thấy có Dương Văn Minh họ chạy lại. Tôi hỏi : “Các anh có biết nhân viên đài phát thanh họ chạy nấp ở đâu không ?”. Một anh trả lời : ”Họ còn làm việc hồi chín giờ, nghe xe tăng quân giải phóng vào họ chạy nấp gần đây thôi, chú giải phóng yên tâm, chúng em sẽ tìm họ được ngay“. Tôi nói tiếp : ‘’Các em cố gắng tìm họ về ngay … (Đoạn này bị mờ không rõ chữ)

(Còn nữa)

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.