Tôi có ông anh họ
bên ngoại (sinh 1947) được học bổng Hoa Kỳ, đậu master toán thống kê và xác
suất, về nước làm ở bộ Kinh tế.
Anh kể, năm 1974,
tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo - Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa đặc trách phát triển
kinh tế, kiêm Bộ trưởng Bộ Canh nông và Kỹ nghệ, gọi anh lên xem “Đồ án xây dựng Hệ thống kho tồn trữ lúa
gạo” (rice preservation system) theo Chương trình tài trợ kế hoạch hậu
chiến của Hoa Kỳ.
Nhưng ngặt là
Chương trình tài trợ đòi Việt Nam phải đưa ra được danh sách kỹ sư ngành tồn
trữ lương thực (food storage engineer), TS Hảo sai anh rà soát có kỹ sư tồn trữ nào đang làm trái nghề ở các bộ, ngành
không?
Anh nhờ bộ Giáo
dục rà soát danh sách du học từ trước đến giờ. Tra danh sách học bổng và danh sách
du học tự túc đều không thấy. Tra danh sách công chức và viên lại ở bộ Nội vụ
cũng không có.
TS Nguyễn Văn Hảo
tha thiết với dự án tồn trữ lương thực để bài trừ mạng lưới chành lúa gạo do
các Hoa kiều khuynh đảo.
Ông cấp học bổng
cho sinh viên học kỹ sư tồn trữ nhưng không kịp nữa, vì chiến sự khốc liệt và
Quốc hội Hoa Kỳ cắt hoàn toàn viện trợ.
Xin nói thêm, Hoa
kiều độc quyền phân phối và khuynh loát giá gạo suốt 21 năm ở miền Nam, cho dù
tướng Nguyễn Cao Kỳ đã xử bắn Tạ Vinh (14/3/1966) để làm gương.
Khi cảnh sát tài
nguyên (cảnh sát kinh tế bây giờ) ập vào kho bến Bình Đông, Tạ Vinh cho đổ gạo
xuống kênh Đôi để phi tang tội đầu cơ, làm tướng Kỳ điên tiết.
Việc tồn trữ lúa
gạo bằng chành (bị chuột phá, bị nấm mốc) kéo dài sau giải phóng, cho đến khi bà
Ba Thi xây nhà máy xay xát Satake (của Nhật) ở chợ Đệm. Kho tồn trữ lúa Satake
đúng công nghệ bảo quản, nhưng quá nhỏ và chỉ tồn trữ tạm chờ xay xát.
Trở lại chuyện
ông anh.
Sau giải phóng,
TS Nguyễn Văn Hảo (có công giữ 16 tấn vàng trong ngân khố) được cách mạng mời
làm cố vấn. Trong khi, anh bị cải tạo vì chức chủ sự phòng. Năm 1987, anh vượt
biên thành công.
Thời bao cấp, khi
toàn dân ăn gạo mốc độn với bo bo, anh tâm sự với tôi, nếu còn thời gian để TS
Hảo xây dựng đồ án tồn trữ lúa gạo xong, thì mình đâu bị ăn gạo mục thế này!
Anh kể, đồ án tồn
trữ lúa dài hạn cả năm trời, với nhiêt độ và độ ẩm chuẩn, không chuột bọ và nấm
mốc. Khi cần tiêu thụ mới đem xay, nên không có gạo mục.
Trong khi đó, các
công ty lương thực tỉnh (trừ nhà máy Satake) toàn mua gạo trữ. Ngoài chuyện
chứa từng lô nhỏ làm lẫn lộn giống gạo, việc vận chuyển gạo bằng ghe bầu bị
sóng nước (chưa kể thương lái đổ nước cho tăng cân) làm độ ẩm gạo tăng, chất
lượng gạo giảm.
Sau này, tôi hỏi
về tồn trữ gạo, giáo sư Võ Tòng Xuân nói không có nước nào trữ gạo như Việt Nam.
Theo GS Võ Tòng
Xuân, hệ thống tồn trữ ở Thái Lan không chỉ bảo quản lúa sau thu hoạch đúng
công nghệ, mà còn tạo ưu thế về thanh toán, thanh khoản.
Thí dụ, mỗi nông
dân (sở hữu hàng chục mẫu) gửi lúa vào kho tồn trữ được chứa từng lô riêng,
đánh dấu mã giống lúa. Rồi, anh nông dân ra ngân hàng thế chấp “biên nhận lúa
nhập kho” (mà là kho tư nhân và không cần công chứng) vay tiền mua vật tư nông
nghiêp để làm vụ sau.
“Biên nhận nhập
kho” trở thành “hối phiếu” hoán đổi thành tiền trong vòng một nốt nhạc! Đúng là
tư bản chó chết!
Cho đến khi tìm
được hợp đồng xuất gạo trùng giống lúa của anh nông dân gửi, Kho tồn trữ chỉ a
lô: “có hợp đồng xuất với giá này anh chịu bán không?”. Nếu nông dân “say no”
cứ để đó chờ giá lên, nếu nông dân “say yes”, kho tồn trữ xay liền ra gạo nóng
hổi, thổi lên băng chuyền chuyển ngay xuống tàu.
Rồi, nông dân ra
ngân hàng lãnh tiền bán gạo, sau khi khấu trừ vốn và lãi vay mua vật tư nông
nghiệp, cộng với tiền lưu kho tồn trữ.
Vì vậy, nông dân
Thái Lan không bán lúa non, không bị thương lái ép giá và không có Hiệp hội
lương thực làm đầu nậu xuất gạo!
MAI BÁ KIẾM
26.03.2020
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.