1
Thời
gian trôi, chớp mắt đã quá nửa thế kỷ. Không thể níu kéo nó, không thể bắt nó
dừng. Nó đi rồi là hết, may chăng còn rớt lại cái bóng.
Tôi
có giữ lại một cái bóng có thể bổ sung cho tiểu sử một con người đáng nhớ. Người
ấy có thể là người quen của bạn, người ấy có thể không xa lạ với bạn, biết đâu
đấy.
Chuyện
là thế này.
Cuộc
kháng chiến đã vào năm thứ tư. Con đường hàng tỉnh từ Tuyên Quang đi Thái
Nguyên vốn hẹp không có ô tô qua lại còn trở nên hẹp hơn nữa. Những bụi cây lúp
xúp tràn ra mặt đường. Cỏ gà, cỏ mần trầu mọc thành bụi ở những ổ gà. Ở đôi chỗ
hoa lau lòa xòa quệt vào mặt khách bộ hành.
Ba
lô trên vai, tôi cắm cúi đi.
Một
mình. Nắng chói chang.
Đường
vắng ngắt, không bóng người. Thỉnh thoảng lắm mới thấy một chiếc xe đạp lọc cọc
vượt qua.
Đang
đi bỗng dưng tôi thấy người ngây ngấy sốt. Trong người cảm giác rét tăng dần.
Sốt rét rồi! Cái thứ bệnh tai quái không đến khi mình còn ở cơ quan tĩnh tại
hoặc ở một trạm chờ nào đó, khốn nạn thế, lại nhằm lúc mình đang trên đường,
không còn gì tệ hơn.
Tôi
sốt đùng đùng và rét run cầm cập.
Thứ
ánh sáng tàn nhẫn của nắng quái thiêu đốt tất tần tật mọi thứ nó đụng tới. Những
bụi rậm ven đường rũ xuống, lá nào lá ấy quắt queo.
Đến
lúc không còn chịu đựng được nữa, tôi tạt ngang, lao bừa vào rừng qua những bụi
rậm gai góc và dây leo chằng chịt. Chỉ ở trong ấy, dưới những tán lá rậm của
cây cao mới có chỗ trú khỏi cái nắng chết người.
Sức
trong người tôi cạn dần cùng với mỗi bước đi, cùng với mỗi hơi thở nóng hổi, như
thể nước trong thùng từng đợt ộc ra ngoài. Đi được vài chục bước, tôi kiệt lực,
gieo mình xuống thảm lá mục, cố lê đến một gốc cây thấp, tựa vào nó mà thở hồng
hộc. Hơi thở làm bỏng môi trên. Những dòng mồ hôi lăn dài trên ngực. Áo quần
chẳng mấy chốc đã ướt đẫm.
Dù
sao thì cuộc chạy trốn khỏi con đường đá răm vắng ngắt phơi mình dưới ánh nắng
kinh khủng ngoài kia cũng ngừng được trong giây lát. Một con chim đỏ chót bay
vút qua những bụi rậm trước mắt tôi với một tiếng hót lanh lảnh làm tôi giật
mình.
Tôi
chợt hiểu: cái mà tôi đang chịu đựng không phải sốt rét thường. Rất có thể nó
là một cơn ác tính.
Tôi
đã biết sốt rét ác tính là cái gì. Nó thường đi kèm với cái chết.
Tôi
thì còn quá trẻ để chết.
Không,
tôi không thể chết thế này.
Tôi
gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao trở lại con đường chói lòa.
Không
thể dừng. Phải tiếp tục đi. Ngay lập tức.
Bằng
mọi giá, phải tới được trạm quân y, tôi nhớ nó cách đấy không xa lắm.
2
Tiếng
đàn làm tôi tỉnh giấc. Tôi nằm yên, lắng nghe những giọt âm thanh thánh thót
tan vào không gian im ắng. Nó thoáng hiện, thoáng mất, nhưng không phải trong
mơ.
Giai
điệu mơ hồ đưa tôi về quá khứ, nhắc tôi tới một cái gì mang máng nhớ mà không
sao nhớ ra.
Choàng
tấm chăn sui [1]
lên vai, tôi đứng lên đi, những bước xiêu vẹo về phía có tiếng nhạc.
Qua
tấm liếp khép hờ ngăn với gian ngoài tôi thấy một người đàn ông đang cúi xuống
cây ghi ta Hạ Uy Di. Cảnh tượng làm tôi sững sờ – tôi không nghĩ tới, không
tưởng tượngnổi giữa rừng Việt Bắc thời chiến lại có người nhàn tản chơi đàn như
thế.
Tiếng
đàn đột ngột tắt.
Người
đàn ông ngẩng lên. Rồi bật dậy, sải bước về phía tôi, ngắm nghía tôi, đoạn
buông một câu hỏi bất ngờ:
-
Hà Nội hở?
Rất
ngạc nhiên, nhưng tôi gật:
-
Hà Nội.
Anh
ta nhìn tôi chằm chằm, đặt tay lên trán tôi, rồi cười lớn:
-
Lạy Trời, cậu sống rồi!
3
Tôi
không tới được trạm quân y.
Hình
ảnh cuối cùng mà tôi nhớ được là một mái tranh lờ mờ trước mặt.
Tỉnh
lại, tôi thấy mình trong gian bếp thấp tè, đen sì mồ hóng với bầu không khí đậm
mùi khói lưu cữu.
Người
đàn ông kéo tôi đến bên chõng, đặt tôi ngồi.
-
Tốt rồi! – anh nắm tay tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, lặp lại lần nữa – Đã tưởng
cậu không sống nổi.
Tôi
nhìn anh. Dáng thanh mảnh, cao ráo, gương mặt thông minh, đôi mắt sáng, đen
láy, cái nhìn thẳng thắn. Tất cả gợi cảm giác tin cậy , thoải mái. Cách xưng hô
“cậu, tớ” ngay lập tức xoá nhoà ranh giới giữa tôi và người lạ.
-
Lúc khiêng cậu vào, mặt cậu tím ngắt, lay gọi thế nào cũng không tỉnh.
Tôi
ấp úng lời cảm ơn.
-
Vớ vẩn! – anh lắc đầu, cười hiền – Cảm ơn cái con khỉ. Cảm ơn trời ấy.
Thì
ra đây là người cứu tôi. Tôi chỉ nhớ khi quán nước hiện ra lờ mờ trước mặt, thì
trời đất bỗng nghiêng ngả rồi đổ sụp.
Anh
đặt tay lên vai tôi:
–
Cậu nằm đây vài ngày cho lại sức, mọi cái tính sau.
Nụ
cười nói về con người nhiều hơn bất cứ ngôn ngữ nào. Qua nụ cười ta có thể biết
mọi thật giả, tốt xấu nơi người đối thoại. Nụ cười của anh cho tôi niềm tin.
-
Cậu người phố nào?
-
Nhà Rượu, anh ạ.
-
Ờ, Sergent Larrivet – anh nói, mắt mơ màng – Tớ cũng hay qua đấy. Bên kia Nghĩa
địa Tây có cái marbrerie [2]
Ngô Văn Vỹ. Tớ quen gia đình này.
Cái
xưởng đá với vô số bia mộ đẽo dở nằm ngổn ngang trong một bãi rộng tràn cả ra
ngoài đường là hình ảnh quen thuộc với tôi. Tôi thường đi qua đây để ra phố
Huế, nơi lũ trẻ chúng tôi đặt những nút bia lên đường tàu điện, chúng sẽ bị
bánh tàu điện ép phẳng lì thành một thứ tiền trong tròăn thua của trẻ con, gọi
là xèng.
Từ
chỗ chúng tôi đang ngồi, Hà Nội xa tít tắp, như ở một thế giới khác.
Anh
đặt cây đàn sang một bên, bắt tôi nằm, rồi ngồi bên – Giữa đường được gặp cậu,
lại là người Hà Nội, tớ vui lắm.
Tôi
nằm, ngước nhìn anh.
-
Cậu có hay đi ciné [3]
không?
Tôi
gật.
Anh
mơ màng:
-
Mình hay đi Majestic. Cậu cũng hay xem ở đấy chứ?
Tôi
lại gật.
Majestic
nằm giữa phố Huế, là rạp cho tây đầm, cho nhà giàu, vé đắt. Tôi mê xem phim,
nhưng chỉ có thể xem phim ở rạp Moderne phố Hàng Quạt. Giá hạng bét ở rạp này
một hào rưỡi, nhưng khi buổi chiếu đã bắt đầu, cửa đã khép, thì chỉ cần giúi
vào tay ông gác cửa to béo có hàng ria mép rậm một hào hoặc không đủ một hào là
con người dễ tính liền gạt bức màn bằng vải thô nặng nề đẩy tôi vào không gian
mơ ước. Tôi thường được vào khi đã qua phần thời sự hoặc phim chính bắt đầu
chiếu. Phim nói tiếng Pháp nhưng đọc chương trình tóm tắt có thể hiểu chuyện
phim. Chúng tôi, những đứa trẻ mê xi-nê, đứa nào cũng tích được một tập chương
trình. Chúng tôi thuộc tên các diễn viên, ngày ấy gọi là tài tử - Clark Gable,
Cary Grant, Gary Cooper…
-
Phim cuối cùng cậu xem là phim nào?
-
Bạch Tuyết và bảy chú lùn, anh ạ.
Tôi
không thể cậu tớ với người hơn mình nhiều tuổi
Bạch
Tuyết và bảy chú lùn không được chiếu ở các rạp rẻ tiền. Tôi phải hy sinh vài
buổi xem ở rạp Moderne để được ngồi ghế hạng bét ở Majestic.
-
Thích chứ?
-
Thích.
-
Còn mình thì thích Pinoccio.
Mắt
anh mờ đi.
Nỗi
nhớ chung dắt chúng tôi về nơi đã trở thành dĩ vãng.
-
Tôi cũng thích Pinoccio. Nhưng thích nhất là những phim cao-bồi như La
Chevauché fantastique[4].
- Tớ có xem phim này. Charles
Starett vai chính.
- Xem xong, sau buổi chiếu
muộn - tôi mơ màng nhớ lại - khi ngoài tiếng guốc gỗ khua trên vỉa hè đêm là
tiếng huýt sáo bản nhạc trong phim vừa xem.
Anh huýt sáo giai điệu tôi
vừa nhắc:
- Tuyệt. Người Hà Nội rất có
khiếu âm nhạc. Không thế thì làm sao nhớ được một giai điệu vừa mới nghe.
4
Một cô gái xuất hiện ở cửa
quán.
Ánh sáng ngược tạo ra một
vầng hào quang trên mái tóc cô, nó làm gương mặt cô chìm trong tối, trừ cặp mắt
long lanh.
- Cô chủ quán – anh ngừng
nói, mắt tươi rói.
Nhìn thấy tôi, cô gái reo lên
mừng rỡ:
- Ối trời, anh đã dậy được
rồi kìa!
Cô đặt bàn tay mềm và mát
rượi lên trán tôi, cười khanh khách:
- A lúi, lúc ấy trông anh
kinh lắm. Mấy ngày rồi ấy nhỉ? Hôm nay là ngày thứ ba.
- Không có cô ấy thì một mình
tớ không tài nào tha nổi cậu đâu – anh nói – Cậu trông thế mà nặng kinh.
Anh cười tươi, mắt không rời cô
gái.
- Như chết rồi ấy – cô gái
nói – Người chết nặng hơn người sống, các cụ bảo thế.
Nước da trắng hồng, nụ cười
phô hàm răng trắng đều đặn – một cô gái xinh. Thoạt nghe cô “a lúi”, tôi nghĩ
cô người Tầy, nhưng “may ơi là may” thì chỉ có người Kinh nói.
- Đang nằm xuội anh bật dậy,
răng nghiến chặt, bọt mép sùi ra, giãy giụa như lên cơn động kinh – cô miêu tả
tình cảnh của tôi - Hai anh em đè không nổi.
Tôi nói xinh là không đủ,
hoặc sai.
Tôi đang ở cái tuổi nhìn thấy
cô gái nào cũng đẹp, không đẹp lắm thì cũng đẹp vừa. Trong bộ quần áo xanh
chàm, trông cô không khác những cô gái Tày. Cô có giọng liến thoắng, rất trong,
như hát.
Anh cười theo cô, lắc đầu:
- Khiếp, lại còn đái cả ra
quần nữa chứ.
Tôi nhìn xuống.
Tôi đỏ bừng mặt. Ai đã thay
cho tôi? Người đàn ông nọ? Hay… cô gái?
Cái ba lô của tôi nằm dưới
chân chõng. Tôi kéo nó lại. Bộ quần áo cũ đã được giặt sạch nằm trên cùng. Cái
tôi quan tâm hơn hết là bó tài liệu bọc trong vải mưa tẩm nhựa thông. Nó còn
nguyên vẹn.
Anh không để ý cử chỉ hấp tấp
của tôi. Nếu nhận thấy, anh sẽ giận vì nó chứng tỏ tôi không tin người đã cứu
mình.
- Ca ác tính này tớ đã gặp.
Khó qua lắm – anh chậm rãi nói – Phải có Quinoform tiêm thẳng vào ven mới xong.
Ở cái chốn hẻo lánh này thì làm gì có nó. May sao, tớ còn nhiều ký ninh. Mới
hòa thật đặc cho cậu uống. Là còn nước còn tát, chứ chẳng hy vọng gì.
- Cả một vốc thuốc. Răng anh
cắn chặt lắm – cô gái kể - hai người cậy mãi mới được. Anh vùng vẫy, phun phì
phì.
- Tớ còn sợ làm cậu chết vì
thuốc ấy – anh nghiêm nghị - Thôi thì cứ liều, đổ đại cho cậu. Coi như còn nước
còn tát.
5
Tôi không quên từng chi tiết
cuộc gặp gỡ bất ngờ. Nó hằn sâu trong trí nhớ bề bộn.
Nó đúng là như thế. Bắt đầu
không phải cái gì khác, mà một câu hỏi:
-
Hà Nội hở?
Làm
sao anh có thể thoáng qua đã nhận ra một nét Hà Nội trong tôi?
Tôi
không đặt câu hỏi ấy ra với anh. Anh hỏi mà như khẳng định. Không khảo sát,
không đánh giá.
Quán
nước này giống hệt mọi quán khác – một mái tranh nhỏ, tạm bợ, không chái, không
vườn. Những quán nước như thế nằm rải rác trên con đường hàng tỉnh với quãng
cách không thể nào biết trước, có thể vài cây số, có thể hơn. Chúng hiện ra bất
ngờ ở những khúc ngoặt, những ngả rẽ bên con đường ngoằn ngoèo hết lên lại
xuống giữa đồi núi chập chùng.
-
Em phải chạy ngay, mẹ em bảo. Đã có các anh ở đây rồi.
Tôi
gặp mẹ cô vài lần mấy ngày sau khi bà tạt qua quán – một người hết sức đồng
bằng, chít khăn mỏ quạ, thấp bé, nhanh nhẹn, ít nói, cười nhiều. Bà kể: khi
làng bị Tây càn, bà đắt con chạy theo gia đình một ông lái gỗ, vùng này ông
quen khi còn làm sơn tràng. Thời chiến, nghề buôn gỗ về xuôi không còn đất, ông
dựng hai ngôi nhà tạm cho hai gia đình. Đất rộng, hai nhà phát hoang trồng
khoai trồng sắn, nuôi gà, chạy chợ.
Trong
gian ngoài cái quán có cái chõng tre đã ngả màu cánh gián, trên đó có ấm nước
vối sứt vòi, mấy cái bát sành, vài nải chuối, mấy tấm bánh lá, mấy gói kẹo
vừng, kẹo lạc, vài phong thuốc lào - hàng hoá muôn thuở của bất cứ quán ven
đường nào. Sang hơn cả, được đặt trong một lọ thuỷ tinh không trong suốt là
những cái kẹo đen sì làm bằng đường thẻ, có tên là “kẹo đầu Tây”, vì chúng
trông giống những cái mũ sắt. Khi vắng chủ quán, khách vãng lai tự ăn tự uống,
rồi tự bỏ tiền vào một cái hộp bánh quy đã rỉ sét, không có nắp. Hàng bày trên
chõng đều có ghi giá, khi bằng bút chì, khi bằng mực tím, viết nguệch ngoạc
trên một mẩu giấy.
Nhiều
quán trên mấy tỉnh lộ vùng núi cũng thế - người ta chẳng cần trông, khách không
bao giờ ăn uống mà không trả tiền.
-
Có lần người ta trả bằng gạo, chắc là của mấy chú bộ đội – bà chủ quán kể - Tội
nghiệp, không còn tiền thì thôi, chứ ai nỡ đòi gạo bộ đội.
Ngoài
hai mẹ con, trong quán còn có một con chó bốn mắt, thứ chó mực có hai đốm vàng
trên mặt, tôi gặp nhiều ở vùng này. Cả ngày nó tha thẩn theo cô chủ, cô đi đâu
nó theo đấy. Nhưng khi cô bảo nó ở lại quán thì nó nghe lời, ở lại với hai
chúng tôi.
Con
bốn mắt không có tên. Nó quấn tôi lắm. Mỗi khi tỉnh giấc thấy con bốn mắt nằm
giãi thải dưới chân, mắt lim dim, cùng tôi nghe đàn, tôi có cảm giác đang ở nhà
mình.
Khi
tôi còn bé, nhà tôi có một con Kiki trắng vá đen. Lứa đầu nó đẻ bốn con rất
đẹp, cũng trắng vá đen như mẹ. Suốt ngày tôi chơi với chúng. Khi một đứa con
của nó chết, tôi đem con chó tí xíu chôn ở dưới gốc hoàng lan cuối phố, nơi có
con đường tắt đầy cỏ may dẫn vào chùa Hai Bà. Những giọt nước mắt đầu tiên của
tôi trước sự mất đi không thể nào lấy lại của sinh linh bé bỏng đã nhỏ xuống
nấm mồ cũng tí xíu.
Tôi
trên đường công tác. Người đàn ông chẳng nói mình đi đâu, làm gì. Tôi cũng
không hỏi.
Anh
không giống những người tôi thường gặp. Áo sơ mi trắng, quần ka ki, sạch sẽ.
Như thế anh không thể là bộ đội, bao giờ cũng xộc xệch, cũng nhếch nhác, không
nhiều thì ít. Cũng không phải cán bộ chính trị chỉn chu trong bộ ka ki với cái
xà cột bất ly thân, cán bộ cấp cao một chút còn cưỡi xe đạp Sterling. Anh cũng
chẳng giống dân “bờ lờ”, cách gọi tắt dân buôn lậu, trong bộ cánh nâu tươm tất,
kính đen Stigmal gọn gàng trên sống mũi. Tôi đoán anh là nhạc công trong một
đoàn nào đó. Nhưng dân văn công thường đi đoàn với đủ mọi thứ lỉnh kỉnh. Người
này chắc hẳn có công việc gì đấy không quan trọng, không cấp thiết. Không thế
thì sao anh có thể ở lại giữa đường để trông nom một kẻ không hề quen biết.
Khi
tôi hỏi ở lại giúp tôi có làm dở dang công việc của anh không, thì anh thờ ơ: « Chuyện vặt. Người nào gặp trường hợp
này thì cũng làm như tớ thôi. Cậu có thể bỏ một người thập tử nhất sinh mà
không cứu? Phải đợi cậu khỏe lại hẳn tớ mới đi được. »
Mấy
ngày tôi nằm lại, anh bắt tôi uống thuốc, chơi đàn cho tôi nghe, trò chuyện với
tôi về thành phố từ đó chúng tôi ra đi.
Hà
Nội đã tít tắp xa. Chẳng ai biết trước ngày trở lại. Có thể mường tượng nó –
những con phố với những cột điện, những hàng cây, lá rụng trên hè, nước lặng lẽ
chảy trong rãnh. Và “mái buồn nghe sấu rụng” trong thơ Quang Dũng.
Rõ
ràng là con người này chẳng vội vàng, gặp chỗ dừng chân dễ chịu thì dừng, chẳng
buồn kén chọn. Rất có thể cuộc gặp gỡ bất ngờ với người cùng quê hương cho anh
cái cớ để dừng lâu hơn.
Tôi
ngờ anh dừng lâu hơn vì cô gái.
-
Một bông hoa rừng. Nhưng từ dưới xuôi lên.
Khi
nhìn cô, mắt anh vừa sáng lên, vừa mơ màng. Cũng có thể tôi nhầm. Đôi lúc tôi
có cảm giác vừa nói chuyện với tôi anh vừa nghĩ về một cái gì khác rất xa,
chẳng dính dáng tới điều chúng tôi đang nói.
Ngày
nào anh cũng bảo cô chủ quán mua gà, mua trứng về nấu cháo cho tôi ăn. Những
bữa ăn như thế giúp tôi lại sức rất nhanh. Không những thế, chúng còn là những
bữa ăn sang trọng hiếm có trong đời lính.
Một
hôm, thấy tôi có vẻ băn khoăn, anh gọi tôi ra sau quán. Đứng trong những bụi
sắn, anh trật quần dài, kéo tay tôi đặt vào cạp quần đùi:
-
Cậu nắn đi.
Tôi
nắn thấy những vật tròn cứng.
-
Vàng đấy. Toàn nhẫn cả. Dự trữ cho kháng chiến trường kỳ. Thỉnh thoảng tớ lấy
ra một cái bán đi ăn dần.
Anh
xắp lại quần, cười hì hì:
-
Đừng lo tớ không có tiền.
Tôi
kể dài dòng văn tự chỉ cốt để người đọc những dòng kỷ niệm này hình dung được
khung cảnh một thời đã mất. Thời ấy con người với con người là bạn, và còn hơn
thế. Mà cũng để ghi lại một cái ơn. Không có cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, biết đâu
tôi chẳng còn.
Thời
gian ngắn ngủi ở bên nhau đủ để chúng tôi thân nhau, yêu quý nhau nữa, có thể
nói như thế. Những cuộc tâm sự đêm khuya trong tiếng sương rơi lộp độp trên mái
tranh làm tôi hiểu và quý anh hơn.
Tôi
trách mình đã không hoàn toàn tin anh. Thời chiến, tinh thần cảnh giác cách
mạng làm cho cuộc chia tay giữa hai chúng tôi không được như lẽ ra nó phải có.
Chúng
tôi quyết định lên đường đi Thái Nguyên khi tôi đã có thể đi được. Tôi cố ý đi
quá nơi tôi phải rẽ vào chừng một cây số mới chia tay với anh:
-
Mình sẽ còn gặp lại – tôi nói.
-
Chắc chắn – anh nói.
Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và gia đình. |
6
Tôi
đã gặp Đoàn Chuẩn đúng như thế. Chia tay với anh, tôi chỉ biết cái tên.
Tôi
gặp một con người, không phải một danh tiếng.
Những
tác phẩm của Đoàn Chuẩn tôi không được nghe trong những năm kháng chiến. Tôi
không nghĩ rằng đã có một lệnh cấm những bài hát lãng mạn. Chúng có vẻ không
thích hợp trong thời chinh chiến thì người ta không hát, thế thôi. Hoặc giả có
một lệnh cấm nào đó mà tôi không biết, không được nghe phổ biến.
Cuộc
gặp gỡ thứ hai với người cứu mạng mình xảy ra mấy năm sau.
Ngày
10.10 năm 1954, xong việc quay cảnh thượng kỳ ở Cột Cờ, tôi đi lang thang. Ở
phố Huế, trước cửa rạp chiếu bóng Majestic, tôi thấy một chiếc xe hơi bồng bềnh
đi chầm chậm theo mình. Một gương mặt lạ – mái tóc bóng mượt, miệng ngậm bót
thuốc lá ló ra ở cửa để mở. Người ngồi sau tay lái chăm chú nhìn tôi rồi cho xe
vượt lên ngang tầm:
-
Hiên hả? Phải Hiên không?
Đến
lúc ấy tôi nhận ra anh: Đoàn Chuẩn.
Anh
cho xe dừng, bước ra, ôm chặt tôi, mừng rỡ.
-
Về khi nào?
-
Đêm qua. Mới đi bát phố một lát.
- Cậu ở đâu?
- Khách sạn Splendid.
Anh cười:
- Sang nhỉ?
Rồi kéo tôi vào quán cà phê
An Thái Majestic.
Người Hà Nội xưa đều biết
quán cà phê này. Nó ở bên trái rạp chiếu bóng nếu đứng từ ngoài đường nhìn vào.
Sau này, khi rạp Majestic đổi tên thành Tháng Tám thì nó biến thành một cái gì
khác, một quán tạp hóa thì phải.
Quán đầy người. Khói thuốc lá
mù mịt.
Đoàn Chuẩn lấy ra một cái hộp
đựng thuốc lá lạ mắt bằng nhựa trong, màu vàng. Hộp này có rất nhiều ngăn,
trong mỗi ngăn là một thứ thuốc lá: Phillips Morris, State Express, Craven A,
Camel, Melia Jaune, Bastos… Các ngăn nối với nhau bằng dây thun. Chọn thứ thuốc
loại nào thì bẻ gập nó ra. Tôi ngắm hộp thuốc lá của anh không rời – lần đầu
tiên tôi thấy một hộp thuốc lá như thế.
- Cậu chọn loại nào?
Tôi chọn Craven A.
Anh bật lửa cho tôi. Cái bật
lửa cũng lạ mắt như hộp thuốc lá, nó nhỏ, mạ vàng. Trong vùng kháng chiến chúng
tôi chỉ có thứ bật lửa có khắc hình xe tăng, được gọi là “bật lửa tàu bò” có
bán ở các chợ giáp ranh.
Anh nheo mắt ngắm tôi:
- Sao cậu không mặc uniforme
(đồng phục)?
- Tôi không thích nó – tôi
cười - Mặc vào như người gỗ.
Tôi trở về Hà Nội từ Nam Định. Trong thành
phố người Pháp vừa bỏ lại mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Đoàn quay phim
chúng tôi được lệnh phải may mỗi người một bộ đại cán để vào tiếp quản Hà Nội.
Đúng vào lúc lên đường, mọi
người mới ngớ ra – cả đoàn đều vận đại cán, riêng tôi thì mặc đồ dân sự: áo
popeline Thụy Sĩ, quần simili, giày tây.
Tôi phân trần:
- Mọi hiệu may đều hết vải ka
ki.
Lý do này nghe cũng hợp lý.
Tôi không bị “kiểm điểm” về thói tự do chủ nghĩa là cái tôi thường bị phê phán,
và người ta phê phán đúng – tôi không vừa cho một cái khung nào.
Tiền tiêu chuẩn phát cho cán
bộ may đại cán không đủ cho bộ quần áo tôi chọn. Ông chủ tiệm hào phóng không
lấy thêm:
- Có mấy khi ta được gặp nhau
như thế này.
Hòa bình ở Việt Nam chỉ có một nghĩa:
hết chiến tranh.
Đoàn Chuẩn ngắm tôi:
- Với bộ diện này ai bảo cậu
là cán bộ.
Tôi móc túi lấy cái phù hiệu
tiếp quản thủ đô mọi cán bộ đều được phát cho anh xem. Đoàn Chuẩn ngắm nó lâu
với vẻ tò mò.
- Tôi không đeo nó – tôi phân
trần – Như thế tôi lẫn vào mọi người . Mới nghe được những nhận xét: “Quân phục xấu quá! Mà xăng Liên Xô thối
kinh!”
Đoàn Chuẩn cười vui, giống
hệt anh trong lần đầu chúng tôi gặp nhau.
- Xuống xe điện tôi vẫn nhảy
bổ được, chưa quên đâu – tôi khoe.
- Vẫn còn Hà Nội – anh khen.
Tôi không đụng tới chuyện anh
bỏ kháng chiến. Có cả đống lý do cho chuyện đó, mỗi người mỗi kiểu. Nghe người
ta kể thì Phạm Duy rất bực khi anh đã có trong danh sách đi dự festival thanh
niên và sinh viên thế giới ở Berlin, nhưng vào phút
chót không hiểu sao anh đã bị gạt ra. Vì thế, và chắc vì nhiều điều khác nữa,
anh bỏ kháng chiến. Sau này, tôi gặp Phạm Duy nhiều lần tôi cũng không hỏi anh
chuyện đó. Nó không bao giờ là một thắc mắc. Người ta đi, người ta về, chẳng
liên quan tới ai.
Đoàn Chuẩn không bực bội gì
với kháng chiến. Người ta không quan tâm anh, anh không quan tâm họ. Anh đi
kháng chiến như đi vào một cuộc viễn du thú vị, có vẻ chỉ là thế. Rồi anh trở
về khi anh thấy đi đã đủ. Chẳng có chính chị chính em gì trong chuyện anh đi và
về.
Chúng tôi hàn huyên cả giờ,
uống mấy ly cà phê rồi mới chia tay.
Tối hôm đó tôi bị kiểm điểm:
“Vừa mới vào đã liên lạc với bọn tư sản”. Tôi không biết mấy cậu bảo vệ đã tình
cờ gặp tôi hay đi theo tôi, họ đã báo cáo. Dường như những cuộc tiếp xúc giữa
chúng tôi với người ăn vận sang trọng đều bị coi là thiếu cảnh giác với cái gọi
là “viên đạn bọc đường”.
Họ bảo vệ tôi vì được dạy dỗ
như thế. Chứ không có ý xấu.
7
Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ với
Đoàn Chuẩn tôi được đi Liên Xô học, rồi làm báo, rồi đi tù 9 năm. Giữa những
khoảng cách ấy tôi còn gặp Đoàn Chuẩn vài lần. Ngoài anh ra tôi không gặp một
người nào chơi ghi ta Hạ Uy Di. Thứ đàn ấy ít người chơi, người ta thành kiến
với tiếng ngân nga của nó, chắc vậy.
Ra tù, tôi bận lăn lộn kiếm
sống, rồi liều mạng vào Sài Gòn, nơi không có bàn tay quen thuộc nào chìa ra
cho mình. Đất phương Nam rộng rãi, người
miền Nam phóng khoáng, che
chở tôi, cho tôi mái ấm trong tha hương.
Thỉnh thoảng lắm tôi mới ra
Hà Nội thăm cha mẹ và các em. Hoá ra bác Đoàn Vạn Vân, cha anh, là bạn với cha
tôi. Bác là một trong số ít nhà mà cách mạng gọi là tư sản dân tộc, chủ một
hãng nước mắm nổi tiếng. Cha tôi nói bác có giấm giúi cho cách mạng tiền, nhưng
tôi không thấy những người viết hồi ký nhắc tới bác. Có lẽ tại bác cho không đủ
nhiều. Hoặc vì chẳng bao giờ bác ra mặt ủng hộ cách mạng.
Đoàn Chuẩn vẫn vui khi gặp
tôi, chắc hẳn như gặp một kỷ niệm không quên. Có một lần anh nhắc tới cô gái ở
quán lưng dèo, mắt mơ màng. Trong đời anh chắc có nhiều bóng hồng lướt qua, cô
là một. Mặt thêm nhiều nếp nhăn, anh không đi xe hơi nữa, hút thuốc lá Điện
Biên bao bạc.
Chúng tôi hay kéo nhau tới
quán cà phê ở gần Cột Đồng Hồ, nơi văn nghệ sĩ Hà Nội thường lui tới. Ông chủ
quán có biệt danh Lâm Toét trọng các nghệ sĩ, nhất là các hoạ sĩ, mắt hấp him
nhận ra Đoàn Chuẩn, đãi chúng tôi Gold Flake, thứ thuốc lá ngoại không biết của
nước nào, vào Việt Nam bằng đường nào.
Thời gian ở Sài Gòn, cũng tới
mười năm có lẻ, tôi mới được nghe nhạc Đoàn Chuẩn. Tôi nghe và sung sướng – tôi
đã gặp một nhạc sĩ tài ba mà không biết.
Văn Cao đánh giá Đoàn Chuẩn:
- Nhạc hay. Ca từ lạ, là tâm
sự mà đi thẳng vào hồn người.
Nhớ lại cuộc gặp gỡ ở lưng
đèo Re, tôi đồ rằng những ngày ấy anh cho tôi nghe những bản nhạc anh vừa sáng
tác:
Đây khách ly hương
mấy thu vàng ấm...
Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng...
Mơ tới bên em em tô quầng mắt...
Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung...
Tung phấn hương yêu qua muôn lời hát...
Bay tới bên em tới em thầm nhắc...
Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ...
Bóng anh phai dần ái ân tàn theo...
Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng...
Mơ tới bên em em tô quầng mắt...
Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung...
Tung phấn hương yêu qua muôn lời hát...
Bay tới bên em tới em thầm nhắc...
Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ...
Bóng anh phai dần ái ân tàn theo...
Và:
Chiều nào áo
tím nhiều quá
Lòng thấy
rộn ràng nhớ người
Đường về Việt
Bắc xa cách mây
Nhìn về
đường lối muôn khó khăn
Đây núi cao.
Đây suối sâu
Đây lá xanh
như ngàn xưa
Đường về
ngập gió tha phương
Tiếc đời gấm
hoa ta đành quên núi rừng…
Đoàn
Chuẩn là một tiên ông lạc bước xuống trần. Anh không thuộc về thế giới này. Tôi
không thể nghĩ khác thế.
Năm
2001 khi tôi đang lang thang ở miền Nam Ý thì nhận được tin nhắn của một người
bạn cho biết Đoàn Chuẩn không còn nữa.
Ông
tiên của tôi đã về trời !
2019
[1]Chăn làm từ vỏ cây sui, một thứ cây
trong rừng Việt Bắc. Người ta lột vỏ nó, đập giập, ngâm nhiều ngày trong nước
suối cho nó cho tới khi mềm nhũn chỉ còn lại những sợi gỗ làm thành một thứ có
thể dùng làm chăn.
[2] Xưởng sản xuất đá bia mộ.
[3]Ciné (xi nê, tiếng Pháp, chiếu bóng)
[4]Chuyến đi ngựa kỳ thú.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.