Chỉ là cuốn sách
của con gái viết về cha, nhưng đọc kỹ và nhìn lại thì thấy chưa có một công
trình nghiên cứu nào được xuất bản ở Việt Nam trình bày lịch sử chiến tranh ở
"bên thắng cuộc", cả về chi tiết và mức độ khái quát, hấp dẫn và có
quy mô như thế.
Có lẽ, vì người
cha ấy, tướng Cao Văn Khánh, là một vị tướng tài ba, vừa tham mưu ở tầm chiến
lược vừa trực tiếp cầm quân ở những chiến dịch quan trọng nhất. Ông nằm trong
số rất ít các vị tướng đóng vai trò quyết định cho chiến thắng chung cục của
QĐND VN trong cả hai cuộc chiến tranh: chống Pháp và thống nhất hai miền Nam -
Bắc. Có lẽ, vì con gái ông, PGS.TS Cao Bảo Vân, là một nhà khoa học thực sự
(chị tốt nghiệp đại học Sinh Hóa ở Lomonosov, thạc sĩ và tiến sĩ Dược khoa ở
Pháp).
Lựa chọn thành
công nhất của Cao Bảo Vân là dù rất yêu cha nhưng cuốn sách không phải là một
tự truyện hay chỉ viết về cha, mà là một công trình khảo cứu đồ sộ.
Chắc chị hiểu
rằng, tầm vóc của tướng Cao Văn Khánh chỉ có thể được đánh giá đúng khi đặt bên
cạnh các chiến tướng khác. Vai trò của tướng Cao Văn Khánh chỉ có thể được hiểu
một cách đầy đủ khi "quan sát" ông trong một lực lượng vũ trang, một
lực lượng không chỉ gồm "34 chiến sĩ" ban đầu của tướng Giáp mà còn
được bổ sung bởi "43 học viên" của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến,
trường quân sự đầu tiên của Việt Nam hiện đại, do Chính phủ Trần Trọng Kim lập
ra tháng 5-1945.
Có lẽ chưa ai cần
mẫn đọc kho tư liệu về các cuộc chiến tranh được xuất bản ở trong nước và ngoài
nước như Cao Bảo Vân. Có lẽ ít ai thu thập được các hồi ký, đặc biệt là các
nhật ký, thư từ... của các sĩ quan QĐND VN phong phú và giá trị như chị.
Không ngạc nhiên
khi chị, người có kỹ năng của một nhà khoa học thực chứng, đã xử lý rất thành
công các tư liệu ấy. Nhưng rất ngạc nhiên, khi cuốn sách còn cho thấy tác già
là một người am tường lịch sử quân sự cùng với khả năng tư duy hệ thống.
Cho dù, có không
ít trường hợp tham lam (sẽ hợp lý hơn khi giữ ở mức 500 trang thay vì tới 800
trang); nhiều chỗ lặp lại những tư liệu không còn tranh cãi và vẫn còn quá
"chính thống" trong cách nhìn nhận một số trường hợp lịch sử như khi
nói về tổng thống Ngô Đình Diệm, về "tổng tuyển cử" và về "Giáng
sinh B52..."; Nhưng, cuốn sách vẫn rất thành công nhờ cách tiếp cận với phần
lớn các sự kiện là mới mẻ với nhiều tư liệu được chính thức công bố lần đầu.
Bằng cách trích
dẫn khéo léo, nhiều trường đoạn mới về các sự kiện lịch sử được nói nhiều tới
mức tưởng như đã vô cùng nhàm chán như Điện Biên Phủ, Chiến dịch Đường 9 - Nam
Lào, vẫn được viết hấp dẫn khiến ta đọc khó dừng lại được. Cuốn sách, tuy nói
không nhiều nhưng vẫn làm sáng tỏ một khúc quanh định mệnh trong lịch sử Việt
Nam. Đó là thời kỳ sau 10-1949, Mao thắng Tưởng trong cuộc nội chiến giành
quyền ở Trung Hoa Đại Lục.
Sau chuyến đi bí
mật của Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh và sau đó là sang Moscow (1950), QĐND VN có
thêm nhiều vũ khí. Nhưng, cùng với vũ khí là làn sóng cố vấn Trung Quốc tràn
sang, áp đặt các chuẩn mực cách mạng vô lại của Mao, ở hậu phương thì các cuộc
đấu tố phá vỡ các nền tảng đạo đức gia đình, xã hội; ở trong quân đội thì chỉnh
huấn làm hoang mang không ít chỉ huy.
Vào thời điểm
cuộc kháng chiến vẫn còn là "chống Pháp giành độc lập" ấy, các chỉ
huy lừng danh như Lê Trọng Tấn, Vương Thừa Vũ, Đặng Văn Việt... đều có người
nhà là nạn nhân của các cuộc đấu tố ở địa phương. Vợ của nhà khoa học tự sản
xuất được penicilin, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, sốc nặng sau khi chỉnh huấn, bị tai
biến rồi mất khi chồng cũng đang căng thẳng trong một đợt chỉnh huấn ở xa khác.
Nhiều sĩ quan thiện chiến "cứng đầu" của quân đội thay vì ở chiến
trường cũng bị giữ trong các lớp chỉnh huấn như vậy.
Những tư liệu
được Cao Bảo Vân trích dẫn cho thấy khá rõ "mục tiêu của các cố vấn
Tàu" là Tướng Giáp và những tư lệnh giỏi nhất có nguồn gốc trí thức của
ông. Chị cũng cho thấy vai trò của Nguyễn Chí Thanh trong việc "mở
cửa" áp dụng nguyên tắc "chính trị là thống soái" của Mao. Giải
thích vì sao ông được phong đại tướng khi miền Bắc đã không còn chiến tranh
(1958-1959). Giải thích vì sao các chỉ huy nông dân như Nguyễn Chí Thanh, Chu
Huy Mân, Lê Đức Anh... cho tới lúc đó, chiến tích không thể so sánh với các
tướng trí thức, tài ba và cho tới lúc đó, có người vẫn chỉ tiến hành chiến
tranh du kích, về sau lại đều trở thành "rường cột".
Cho dù đều là
những "hùm xám" trên chiến trường, Đặng Văn Việt - từng đồng cấp với
Chu Huy Mân - vĩnh viễn đeo quân hàm trung tá; tướng Cao Văn Khánh đeo quân hàm
đại tá 26 năm... Những tướng lĩnh xuất thân trong các danh gia vọng tộc, cho dù
công trạng thế nào, đều phải nhường các vị trí quan trọng cho những sĩ quan
nông dân lớp 3, lớp 4.
Lần đầu tiên,
trong cuốn sách của Cao Bảo Vân, một tư liệu rất quan trọng về Quảng Trị đã
được công bố.
Cuối tháng
4-1972, tướng Hoàng Nghĩa Khánh được tướng Văn Tiến Dũng cử ra Hà Nội báo cáo,
vừa ngồi với Tướng Giáp 5 phút thì bị triệu sang nhà Lê Duẩn. "Lê Duẩn đặt cả bàn tay xuống bản đồ, trùm
lên cả khu vực La Vang, thị xã Quảng Trị đến cầu Mỹ Chánh và nói: Tôi đồng ý
đánh ngay". Hôm sau, Quân ủy họp đều phải "đồng ý đánh" kể cả
tướng Giáp người từng quyết định chuyển sang phòng ngự hoặc dùng "một con
đường" đánh vu hồi mà Văn Tiến Dũng (và trước đó là Trần Quý Hai) không
thực hiện.
Từ đó cho đến
16-9-1972, bộ đội vẫn phải vượt sông Thạch Hãn "phản công" mà không
giành được chiến thắng nào... Mỗi ngày Mặt Trận phải bổ sung vào Thành Cổ hơn
trăm quân, chủ yếu là sinh viên mới vào từ Hà Nội, mà không bù đủ số hy sinh
của ngày hôm đó.
Dù cuốn sách khá
ít chất văn vẫn có rất nhiều trang cảm động. Không chỉ là những câu chuyện cảm
động trong tình yêu của ông với một "tôn nữ" bỏ Kinh thành Huế ra
chiến khu. Mà còn thật sự cảm động trước khát vọng độc lập, tình yêu đất nước
của những người xuất thân là trí thức "thời Tây" như Cao Văn Khánh,
Đặng Văn Việt, Phan Tử Lăng..., của những người như mấy chị em vợ ông, con cụ
Thượng thư Tôn Thất Đàn, chịu bao cay đắng mà vẫn hết lòng vì đất nước.
Những ngày tháng
8-1945 là thời điểm mà Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lịch sử, nhưng cũng đầy
những tình huống oái ăm. Mãi tới 1949, tướng Cao Văn Khánh mới vào đảng. Từ khi
cầm súng, ông chỉ có ý định vì đất nước, vì nhân dân. Ý thức hệ không chỉ chia
cắt anh em ông (anh trai ông từng là Phó chủ tịch Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa),
chia cắt bạn bè ông...
Nhiều người xuất
sắc nhất ở thế hệ ông đã theo kháng chiến bởi lòng yêu nước vô điều kiện và
khát khao độc lập. Việt Nam đã rất khác, nếu như cuộc kháng chiến có được những
người xuất sắc ấy chỉ chiến đấu vì một mục tiêu duy nhất là cho Việt Nam tự do
- độc lập.
HUY ĐỨC
01.09.2019
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.