Hầu như nơi nào trên thế giới có người Hoa là nơi đó sẽ có Chinatown, vì người Hoa thích sống cộng đồng để giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Nhưng hầu hết những Chinatown trên thế giới thường chỉ gói gọn trong phạm vi vài con đường chứ không có nơi nào chiếm gần 1/3 diện tích thành phố như Chợ Lớn của Sài Gòn, với diện tích bao gồm các quận 5, 6, 11 và một phần quận 8.
Những người sống ở Sài Gòn từ thập niên 1950-1960 vẫn thường gọi “Sài Gòn-Chợ Lớn” như hai thành phố riêng biệt, vì thời đó nằm giữa Sài Gòn và Chợ Lớn là con kênh Bến Nghé khiến Chợ Lớn trở nên tách biệt với Sài Gòn. Sau này con kênh được san lấp một phần để làm đường bộ nối Sài Gòn và Chợ Lớn nhưng dường như cách nghĩ Chợ Lớn là một “thành phố” trong tâm trí của người Sài Gòn xưa vẫn không thay đổi.
Từ thế kỷ thứ 17, Chợ Lớn là vùng đất mà người của “Ngũ đại bang phái”: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (Hẹ) chọn làm nơi cư ngụ và phát triển khi họ đặt chân đến phương Nam.
Đó là những người Minh Hương, thần tử trung thành của nhà Minh không chịu khuất phục nhà Thanh, đã di cư xuống miền Nam Việt Nam và được chúa Nguyễn cho phép khai khẩn đất hoang để lập ấp và phát triển thành vùng đất mà theo tiếng Quảng Đông gọi là “Thầy Ngòn” (Đề Ngạn-vùng đất kế bờ sông) nghe khá giống “Sài Gòn”.
Tới giờ tôi vẫn thắc mắc không biết “Sài Gòn” có phải là do cách đọc trại từ “Thầy Ngòn” mà ra hay không vì cái tên “Thầy Ngòn” chắc chắn xuất hiện trước cái tên “Chợ Lớn” vốn đến cuối thế kỷ 18 mới được xây dựng khi dân số sau hơn một thế kỷ định cư tại đây bắt đầu gia tăng khiến cho ngội chợ Tân Kiểng vốn được xây dựng từ trước không còn đủ chỗ để buôn bán.
Tôi vốn có 2/3 máu Hoa trong người: bên nội tôi là người Quảng Đông còn bà ngoại lai Phúc Kiến. Hồi còn nhỏ, tôi chỉ sống với ba lẫn mẹ chắp vá lại cũng chưa đầy 5 năm ở nhà nội trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận 11 nhưng ký ức và kỷ niệm của tôi về Chợ Lớn thì sâu đậm.
Nhà nội tôi trên đường Nguyễn Chí Thanh quận 11, là một ngôi nhà cũ kỹ và tăm tối, với mùi ẩm mốc lưu cữu của vô số thứ đồ vật được lưu giữ lại từ năm này qua tháng nọ không biết để làm gì, như một thói quen cố hữu của người Hoa. Ngày nhỏ tôi rất sợ về nhà nội vì sự âm u lạnh lẽo của nó, nhất là những buổi tối cúp điện. Đối với một đứa trẻ chưa vào lớp 1, căn nhà đó không có một chút gì hấp dẫn cả. Có lẽ hiểu điều đó nên mỗi lần chở tôi về nhà nội, ba tôi có thói quen chở tôi đi vòng hết một vòng những con đường chính trong Chợ Lớn để ngắm cảnh phố phường và ăn này ăn nọ rồi mới về nhà chứ ít khi nào đi thẳng một đường.
Lộ trình của ba tôi rất đơn giản và nhất quán: Từ bùng binh ngã Sáu An Dương Vương thay vì đi về đường Nguyễn Chí Thanh, ba tôi quẹo qua đường Nguyễn Tri Phương để ghé mấy quán ăn đối diện bệnh viện Nguyễn Tri Phương ăn hủ tíu mì xào hay cơm chiên Dương Châu, rồi tạt ngang "Tài xây cai" (tên gọi cũ của Nhà Văn Hóa Quận 5 bây giờ- tức là casino Đại Thế Giới xưa) cho tôi chơi một tí, rồi tiếp tục chạy tà tà trên đường Trần Hưng Đạo B để hóng gió.
Trong ký ức của tôi, đường Trần Hưng Đạo B là con đường sang nhất, đẹp nhất và “đúng điệu Chợ Lớn” nhất của Chợ Lớn với những “chẩu lầu” (tửu lâu-nhà hàng) nổi tiếng như Bát Đạt, Thiên Hồng (Arc-En-Ciel) và Ngọc Lan Đình luôn rực rỡ những bảng hiệu đèn neon vàng và đỏ “à la Hong Kong bên hông Chợ Lớn” và những cửa hàng buôn bán đông vui náo nhiệt. Nhưng đoạn đường tôi thích nhất là trên cả con đường là đoạn cắt với đường Triệu Quang Phục, vì nơi đây có những cửa hàng bán đầu lân, trống lân cùng với những loại mũ mãn trang phục mà người Hoa thường mua để cúng chùa Ông, chùa Bà vào những dịp vía. Hồi nhỏ tôi rất mê múa lân nên mỗi lần đi qua những cửa hàng bán đầu lân, tôi lại mơ ước rằng sau này mình lớn đi làm có tiền sẽ mua một cái to nhất, đẹp nhất để về múa cho thỏa thích.
Cũng có lúc, ba tôi chở tôi đi ăn cháo thập cẩm ngay bùng binh Soái Kình Lâm, rồi ghé quán chè “nhà đèn” nổi tiếng gần đó ăn “cấy tản chà” (hột gà nấu với trà), “tành tản” (trứng chưng) hoặc “hằng dành tàu phù” (đậu hũ hạnh nhân). Quán chè vốn có tên là Châu Giang nhưng dân Sài Gòn-Chợ Lớn gốc thì thường gọi quán là “chè cột điện” hoặc “chè nhà đèn”, vì căn nhà cũ kỹ nhỏ xíu nơi quán chè đóng đô suốt hơn 80 năm qua nghe nói từng là một trạm phát điện (người miền nam xưa gọi là “nhà đèn”) thời Pháp thuộc. Tới bây giờ quán chè “nhà đèn” vẫn còn và hầu như không có gì thay đổi. Mỗi lần ghé quán ăn chè, tôi lại có cảm giác mình du hành ngược thời gian về lại Sài Gòn của một thời xa lắm. Đối với một người có nhiều hoài niệm như tôi, một món ăn ngon không chỉ có hương vị mà còn là nhờ vào ký ức.
Những lúc trời oi bức, ba tôi hay ghé tiệm thuốc bắc Phùng Hưng để mua vài thang thuốc bổ về tiềm gà hoặc thịt bò, hoặc đôi khi mua vài lạng kim ngân thảo hoặc hạ cô thảo về nấu với mứt bí uống giải nhiệt. Đường Phùng Hưng từ Soái Kình Lâm qua đường Nguyễn Trãi tuy ngắn nhưng có hơn hai chục tiệm thuốc bắc buôn bán nhộn nhịp không thua gì con đường thuốc bắc Hải Thượng Lãn Ông cách đó không xa. Tôi nhỏ lớn dị ứng với các thể loại dầu xức, nhưng đặc biệt lại thích mùi “Pạc phá dầu” (dầu bạch hoa) và “Woòng lạp coóng” (dầu Huỳnh Lập Quang) của Hong Kong được bán ở các tiệm thuốc Bắc đường Phùng Hưng. Dầu Bạch Hoa cực nóng thì chuyên trị nhức đầu sổ mũi, dùng cạo gió cũng rất tốt còn dầu Huỳnh Lập Quang chủ yếu là xức vết thương ngoài da và xoa bóp sưng trật rất công hiệu.
Song song với đường Trần Hưng Đạo là đường Nguyễn Trãi một chiều dẫn về lại Nguyễn Tri Phương. So với đường Trần Hưng Đạo thì đường Nguyễn Trãi có vẻ lặng lẽ và buồn chán hơn, nhưng lại mang nét cổ kính và trầm mặc hơn với những chung cư cổ và hội quán được xây từ rất lâu, như hội quán Hà Chương của người Phúc Kiến, hội quán Tuệ Thành của người Quảng Đông và hội quán Nghĩa An của người Triều Châu và người Hẹ mà người Việt thường hay gọi là chùa Bà và chùa Ông.
Hội quán người Hoa với kiến trúc mái đao cong vút, với những phù điêu bằng sứ và mảnh gốm đắp nổi hình sóng biển, cá và rồng như nhắc nhở con cháu đời sau nhớ về quá khứ vượt biển của cha ông để đến với vùng đất này. Không chỉ là nơi thờ những vị thần trong tín ngưỡng Đạo giáo người Hoa như Thiên Hậu Nương Nương, Ngọc Hoàng Đại Đế hay Quan Thánh Đế Quân, mà còn là nơi sinh hoạt cộng đồng tương trợ lẫn nhau của những người đồng hương, và cũng là nơi lưu giữ những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống như dạy võ, viết thư pháp, vẽ tranh thủy mặc và hay tuồng hát cổ. Tôi nhớ mỗi lần vía Ông, hội quán Nghĩa An luôn tổ chức hát Triều kịch, một thể loại hát tuồng giống như hát bội nhưng ngôn ngữ sử dụng là tiếng Triều Châu, rất hoành tráng. Ở bên ngoài nghe tiếng trống chiêng vang lừng thôi là cũng đủ khiến người ta náo nức muốn vào xem.
Nếu bạn không phải là người Hoa, có lẽ bạn sẽ ít khi để ý để những con hẻm nhỏ nằm lặng lẽ trên những trục đường chính của với cổng bằng đá có khắc những cái tên bằng tiếng Hoa như Dịch An Lý, Thịnh An Lý, Phương Tế Các Hạng hay Hào Sĩ Phường…Không như những con hẻm của người Việt ở Sài Gòn vốn rất dài, ngoằn ngoèo và thông với nhau, những con hẻm của người Hoa ở Chợ Lớn thường là một quần thể kiến trúc khép kín với hai dãy nhà hai tầng mỗi tầng chỉ khoảng 10-15 hộ, được xây cùng kiểu dáng song song với nhau, và chỉ cách nhau một lối đi nhỏ ở giữa. Cuối hẻm là một ngôi nhà nhìn ra đường cái. Vì thế, nhìn tổng quan, hẻm của người Hoa giống như những cư xá hoặc những chung cư kiểu cũ hơn là hẻm.
Cùng là hẻm nhưng “lý” khác với “phường” hoặc “hạng”. Vì “lý” thường dùng để chỉ những khu dân cư có cùng quê ở một làng hoặc một huyện nào đó từ Trung Quốc. Trong khi “phường” là nơi những người cùng làm một ngành nghề họp lại sống chung, còn “hạng” thường là lưu dân tứ xứ tập hợp lại thành khu dân cư không nhất thiết phải cùng quê quán hoặc nghề nghiệp. Đây là nơi những nét văn hóa truyền thống cổ truyền của người Hoa vẫn còn được lưu giữ khá nguyên vẹn, với những nghề cổ truyền đang dần dần mai một như nghề may áo cưới long phụng, nghề thêu tay, thắt nút dây hoặc làm những loại bánh dân gian của người Hoa mà không phải ai cũng từng nghe tên hoặc nếm thử. Những con hẻm người Hoa như thế này ngày nay ngay cả Hong Kong cũng không còn nên đài truyền hình TVB đã không ít lần sang Chợ Lớn để quay phim tài liệu hay mượn những con hẻm này để làm bối cảnh cho những bộ phim của họ.
Những ngày giáp Tết, ba tôi hay chở tôi đi mua phim về gắn máy chụp hình ở các tiệm chụp hình gần Đại Thế Giới, sẵn tiện ghé mua những tờ giấy đỏ có viết những câu chúc bằng nhũ vàng óng ánh để về dán trước cửa nhà theo tục lệ truyền thống. Không như những “ông đồ” người Việt sau này viết chữ quốc ngữ nhưng lại viết theo lối chữ thảo bay bướm, những người viết câu chúc Tết người Hoa hầu hết đều viết theo lối chữ khải thư, tức lối chữ chân phương, rõ ràng, vuông vức nét nào ra nét đó. Tôi ngày nhỏ học viết những chữ Hoa đầu tiên cũng là bắt chước theo những câu “Hợp gia bình an” (cả nhà bình an), “Nhất phàm phong thuận” (thuận buồm xuôi gió) hay “Sinh ý hưng long” (mua may bán đắt) mà ba tôi mua về dán trước cửa vào dịp Tết.
Nhưng có lẽ điều tôi mong mỏi nhất mỗi dịp Tết là được ba tôi chở đi xem múa lân sư rồng ở chùa bà Nam Hải, nơi tất cả các đoàn lân ngày 30 tết đều quy tụ về đây để múa cúng bà và được “khai quang điểm nhãn” rồi mới có thể đi múa kiếm tiền được. Hồi nhỏ tôi cực kỳ mê xem múa lân vì các đoàn lân ở Chợ Lớn không chỉ múa lân mà còn biểu diễn võ thuật từ múa quyền cho tới biểu diễn các món binh khí đao, thương, kiếm, kích…rất hấp dẫn. Cứ mỗi lần cứ nghe tiếng trống lân hoặc thấy bóng dáng một chiếc xe múa lân chạy trên đường dịp tết là tôi lại cuồng chân muốn chạy theo để xem cho bằng được.
Chợ Lớn ngày nay tuy có ít nhiều thay đổi, nhưng hầu hết những nét cũ một thời hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Chính vì vậy, giờ đây mỗi khi nhớ Chợ Lớn, tôi lại tà tà chạy xe theo lộ trình trước đây ba tôi đã chở tôi trên chiếc mobylette màu xanh cọc cạch để rong ruổi trên các nẻo đường đầy kỷ niệm. Ngắm những ngôi nhà cổ với kiến trúc nửa Pháp nửa Hoa với màu vôi vàng đặc trưng, những hội quán mái đao cong vút hoặc tìm lại một quán ăn xưa nào đó ăn những món Hoa quen thuộc để tìm lại “hồn Chợ Lớn”.
HUỲNH CHÍ VIỄN 26.11.2023
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.