Mùa Ðông năm 1997
khi lang thang qua các đường phố tại những thủ đô nổi tiếng châu Âu như
Bruxelles, Paris, Berlin… tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy gần như mọi người đều
mặc đồ đen. Thỉnh thoảng người ta cũng có mặc màu sáng nhưng thường là những
màu đơn giản như trắng, xám nhạt… ít ai ăn mặc lòe loẹt.
Trái lại, nếu bạn
đến một bản làng người dân tộc ở những miền thượng du phía Bắc hoặc Tây Nguyên,
bạn sẽ bắt gặp những trang phục đầy màu sắc sặc sỡ xanh, đỏ, tím, vàng… với
những hoa văn rằn ri vui mắt.
Xuôi xuống đồng
bằng, len lỏi trong các miền nông thôn, gặp lúc có hội hè đình đám chúng ta
cũng sẽ bắt gặp những màu sắc tương tự trên những chiếc áo dài màu lá chuối non
rực rỡ. Những chiếc sơ mi đỏ chói chang, những đôi dép nhựa màu vàng, những “đề
can“ xanh đỏ tím vàng dán trên xe đạp, xe gắn máy, những khung cửa sổ sơn xanh
dương với các bông sắt đỏ trắng xen kẽ nhau. Bàn thờ, tủ áo, tường vôi thì dán
đấy hình ảnh diễn viên điện ảnh lẫn lộn với tranh Quan Công, Lưu Bị, Trương
Phi.
Ở nông thôn, màu
sắc của trang phục xem ra không phản ảnh tâm hồn con người mà phản ảnh khát
vọng, ước mơ của họ. Cô thôn nữ quanh năm lam lũ với bùn đen, đất xỉn… thường
khát khao những màu sắc rực rỡ tươi sáng. Cậu thợ hồ suốt ngày tiếp xúc với
gạch cát xi măng thì mơ ước một cái quần jean xanh da trời kèm một chiếc áo sơ
mi vàng hoa cúc.
Ở nông thôn, ngay
cả những con vật vây quanh con người đều có những màu tối như con heo, con bò,
con trâu… Phải chăng vì vậy mà con người ở đó cần những trang phục màu tươi
sáng để hưởng thụ một chút huy hoàng?
Những người dân ở
đồng ruộng, rẫy nương suốt ngày vật lộn với mưa nắng, da của họ sậm đen lại,
tóc khô cháy. Chẳng phải vì thế mà trong những giờ giải trí họ cần diện những
trang phục rực rỡ để cố níu lại một chút thanh xuân sao?
Người thành phố
có đời sống sung túc hơn, họ có thừa sự rực rỡ của ánh đèn, của hoa, của tiền
bạc, danh vọng và tình yêu nên họ muốn “chơi nổi” bằng những thời trang có màu…
tối.
Một khía cạnh
khác, người thành phố ngồi trong xe hơi, làm việc, ăn nhậu trong phòng lạnh nên
da dẻ trắng trẻo hồng hào. Họ cần màu tối của áo quần để tôn cái vẻ nõn nà của
da thịt, cái tươi mát của phấn son, cái óng ả của mái tóc, cái long lanh của
đôi mắt.
Thời xưa, màu sắc
trong trang phục lại phản ảnh một tình trạng trái ngược với bây giờ. Thời điểm
các ông con trời, các quan thái sư, thượng thư, nguyên soái… còn nắm quyền thì
thời trang là đặc quyền của họ, đố có thằng dân đen nào dám học đòi những thời
trang quan quyền ấy. Thuở ấy màu vàng là màu của hoàng tộc. Long bào của vua có
màu vàng. Ý niệm vàng và rồng đã cặp bồ với nhau như hình với bóng. Giường ngủ
của vua gọi là giường rồng, thuyền của vua đi gọi là thuyền rồng, mặt của vua
gọi là mặt rồng.
Màu đỏ là màu
trang phục của quan võ. Các ông tướng cỡ như Triệu Tử Long, Trần Bình Trọng,
Quan Vân Trường hẳn phải mặc màu đỏ, gọi là nhung phục. Quan văn thường mặc màu
xanh, chỉ có quan tòa cỡ Bao Công thì “chơi“ màu đen như kiểu trọng tài bóng
đá.
Nhưng các vị con
trời và các vị quan quyền chưa chịu dừng lại với các màu vàng đỏ xanh đen. Họ
còn thêu rồng, vẽ phượng, vẽ kỳ lân, hổ dữ trên ngực áo.
Thời ấy chưa có
điện, ban đêm trong cung thắp đèn cầy hoặc đèn dầu leo lét. Vì vậy mà trang
phục của quý vị ấy còn đính kim tuyến trân châu, cẩm thạch lấp lánh. Như thế
cũng chưa đủ sang, chưa đủ lộng lẫy, họ còn đeo đai, đeo dải như dân hippy
chính hiệu bây giờ. Ðó là chưa kể lục lạc, dây ngọc leng keng, đi tới đâu tiếng
rổn rảng phát ra tới đó. Như thế mới là sang là quý. Họ không biết rằng người
đời sau chỉ đeo lục lạc cho bò, cho ngựa và cho chó để phòng khi chúng đi lạc,
dễ tìm.
Còn như anh thư
sinh mười năm đèn sách mà chỉ thi đậu đến tú tài thì cũng chỉ được mặc chiếc áo
dài màu trắng. Các quan chức trong làng xã thì suốt đời cái áo the thâm. Dân
đen thì “khố rách áo ôm“ khá hơn một chút thì bộ bà ba vải thô màu đen hay nâu,
hay cháo lòng.
Nguyễn Công Trứ,
khi còn là một học trò nghèo cũng đã mô tả thời trang của mình trong bài ”Hàn nho phong vị phú“ như sau: “Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực
làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu. Khăn lau giặt đỏ lòm, trải làm chiếu, bận
làm quần, một bộ ăn chơi quá thú”.
Vậy tại sao giữa
xưa và nay quan niệm về màu sắc trong trang phục lại quá khác nhau như vậy?
Phải chăng màu sắc trong trang phục ngày xưa biểu hiện quyền lực còn màu sắc
trang phục ngày nay lại biểu hiện ước mơ thầm kín của con người?
Y phục sặc sỡ,
quái dị với tua dải, hoa văn, dây nhợ lằng nhằng… biểu lộ đều gì? Quyền lực hay
ước vọng thầm kín?
Không, nó chỉ
biểu lộ sự phản kháng xã hội. Thời trang đó nhằm phá vỡ những mẫu mực của xã
hội, những thói quen, những quan niệm cũ mòn về cái đẹp.
Ðó là sự phản
kháng trong ý thức được biểu lộ qua trang phục. Một sự bế tắc lý tưởng biểu lộ
bằng sự bế tắc của thời trang. Ðó là thứ thời trang tùy tiện, thứ
thời-trang-không-thời-trang. Ðó là sự thách thức của các mẫu mã và kiểu dáng.
Như thế bản chất
của thời trang là gì?
Ðơn giản: đó là
làm đẹp.
Và mỗi người, mỗi
thế hệ, có cách làm đẹp riêng, tuỳ theo vóc dáng, tâm hồn và môi trường sống.
Vì thế tôi không
tin có một thời trang nào chung cho mọi người. Tôi chỉ tin vào thời trang của
mỗi con người, hoặc một tầng lớp người nào đó.
ĐÀO HIẾU
06.12.2019
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.