Đức Giáo Hoàng Francis hôn tượng Chúa Hài Đồng trong lúc làm lễ đêm
Giáng Sinh tại nhà thờ Thánh Peter ở Vatican. (Hình: Alberto
Pizzoli/AFP via Getty Images)
|
(Người Việt 24/12/2019) Dù quý vị không biết Chúa Giê Su là ai, ngày Chúa
Giê Su ra đời đã thay đổi lịch sử nhân loại. Ngài sinh ra trong xã hội những
người bị áp bức.
Chúa
Giê Su và cả cha mẹ ngài là những người tị nạn chính trị đầu tiên được ghi
trong lịch sử. Sau khi Chúa bị đóng đinh, các học trò của ngài cũng trở thành
những người tị nạn.
Đó
là một tôn giáo của loài người tị nạn và bị lưu đầy. Vì thế, một thông điệp
mạnh mẽ nhất của mùa Giáng Sinh là: Tự do!
Paul,
vị tông đồ từ Tarsus, biết rằng cả loài người chung quanh ngài đang sống như nô
lệ trong gông cùm. Vị Caesar, hoàng đế La Mã Tiberius, nắm quyền tuyệt đối.
Pháp luật và các phán quan La Mã cùng các vệ binh bảo vệ trật tự của đế quốc.
Nhưng con người không suy nghĩ, được nói, được sống tự do.
Tất
cả phục vụ Caesar. Mọi người phải đóng thuế cho Caesar. Không ai được chỉ trích
Caesar. Những người đọc sách cấm, những người có ý kiến theo “lề bên trái” sẽ
bị trừng phạt. Dân La Mã họp thành một “đảng cầm quyền” hưởng những ưu tiên hơn
đám dân thường. Mạng đám thường dân rẻ hơn cỏ rác. Chúa Giê Su không chấp nhận
trật tự đó, ngài thầm lặng phản đối bằng cuộc đời mình.
Thánh
Paul đi lánh nạn trên đường tới Damascus, Syria bây giờ, đã nói với những anh
chị em người Galatians, “Hãy sống vững
vàng trong tự do, vì Chúa Cứu Thế đã giúp chúng ta được tự do, không chịu làm
nô lệ nữa!” [Galatians 5:1]
Thánh
Paul cũng lo rằng trong thế giới này những Hoàng đế Caesar, những nhà tiên tri
giả, sẽ tìm cách thuyết phục mọi người rằng họ chỉ là những nô lệ của cường
quyền. Điều này đã diễn ra trong lịch sử. Những tiên
tri giả như Karl Marx, những Caesar như Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông vẫn có
lúc được hàng triệu, hàng trăm triệu người sùng bái.
Trong
xã hội ngài đang sống, Chúa Giê Su là một nhà cách mạng. Ngài tuyên dương những
quy luật sống làm người xứng đáng, đó là “Luật của Thượng Đế,” cao hơn những
luật lệ đang được chính quyền và giáo quyền bảo vệ. Ngày nay loài người đã liệt
kê các điều luật đó trong các văn kiện, như bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
Chúa
Giê Su nói, “(Thượng Đế) gửi tôi đến đây tuyên dương tự do cho những kẻ bị tù đầy và cởi trói cho
những người bị áp bức” [Luke
4:18].
Ngài
không ngần ngại nói: “Nay chúng ta biết
đức công chính đến từ Thượng Đế, khác với những luật lệ hiện hành [Romans
3:21]. Và: “Con người được biện minh
bằng niềm tin,… [Romans 3:28] mà “không được biện minh bởi những luật lệ” [Galatians 3:11]
Thông
điệp của Chúa Giê Su là: Mọi người bình đẳng trước mặt
Đấng Tối Cao. Đặc biệt, Chúa không coi trọng
những kẻ đầy quyền lực, những người giàu có sang trọng mà lại đề cao
những người yếu thế, những người cùng khổ, bị áp bức.
Chúa
Giê Su sanh ra trong một chuồng nuôi súc vật, trong một gia đình thợ thuyền,
mới sinh ra đã được cha mẹ bế đi qua Ai Cập trốn tránh một pháp lệnh quái gở
của Caesar. Khi lớn lên, ngài dạy người chung quanh không nên sợ hãi bọn cường
quyền, dù quyền chính trị hay quyền tôn giáo. Ngài chỉ được một nhóm nhỏ tin
theo, sau cùng đếm được 11 người. Có những đám đông tới nghe ngài nói chuyện,
nhưng phần lớn họ tới vì hy vọng được ăn bánh chớ không phải vì phép lạ.
Cuối
cùng ngài bị các giáo sĩ xử tội và chính quyền đem đóng đinh. Chỉ có mấy tông
đồ chứng kiến ngài sống lại và bay lên trời.
Những
người ngoại đạo có thể không tin ở phép lạ phục sinh, nhưng cũng phải nhìn thấy
những môn đồ của Giê Su mang thông điệp tự do
truyền cho khắp mọi người, đã thay đổi thế giới trong
suốt hai ngàn năm.
Trong
cuộc đời của ngài, Chúa Giê Su không làm bạn với những người quyền quý, giàu
sang mà tìm đến những người cùng đinh trong xã hội, những di dân từ nước khác
tới, cả người bệnh tật và cô gái điếm. Ngài luôn luôn xung đột với đám người
nắm quyền lực, chính trị và tôn giáo. Những tông đồ đem lời dạy của Chúa Giê Su
đi truyền bá không ai có quyền hành hay tài sản đáng kể. Không ai nuôi tham
vọng cướp chính quyền.
Một
thông điệp được Chúa Giê Su nhắc đi nhắc lại mãi, là: Những người đang yếu kém
chính là những người mạnh mẽ nhất! Hãy yêu thương đồng
loại, không phân biệt, không kỳ thị. Ai thấm nhuần được giáo lý đó, là
đang ngộ “ân sủng” của Chúa. Con người không cần phải đi tìm quyền lực để sai
bảo người khác, áp chế người khác, tiêu diệt kẻ thù, tự khen tự thưởng cho
chính mình. Những người yếu kém, sống trong bóng tối, trong gông cùm, bị đày
đọa và bóc lột, họ ở gần Chúa hơn.
Thánh
Paul viết trong một thông điệp sứ đồ Corinthians, kể rằng có lúc ông cảm thấy
có cái gai sắc nhọn đâm trong da thịt mình. Ông ám chỉ cái gai nào, chúng ta
không biết, có thể đoán với nhau. Thánh Paul khẩn thiết xin Chúa gỡ cái gai ra
cho mình. Sau ba lần ông cầu xin Chúa Giê Su đã bảo: “Ân sủng của ta cũng đủ cho con rồi, vì quyền năng của ta sẽ hoàn hảo
trong lúc con yếu.” Thánh Paul ngộ ra: “Vậy
thì khi con yếu, là lúc con mạnh!”
Trong
mùa Lễ Giáng Sinh, những người theo đạo Chúa hay không theo đều có thể nhớ đến
Con Người sinh ra khiêm tốn trong máng cỏ ở Galilee, trong cuộc đời ngắn ngủi ở
trần gian đã từng đứng lên nói cho mọi người chung quanh biết rằng thế giới này
không phải thuộc về Caesar tất cả, mà còn những quy tắc, luật lệ cao thượng,
thiêng liêng hơn. Nghe những lời cầu kinh và những bài hát Giáng Sinh trong
những ngày này, chúng ta đều có thể mở trái tim mình, nguyện sống sao cho xứng đáng làm người.
NGÔ
NHÂN DỤNG
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.