PHẠM CHÍ DŨNG - Nếu đối chiếu với thời
gian năm 2013 là lúc Quốc hội Việt Nam tổ chức « lấy ý kiến nhân dân » về Hiến pháp và sau đó ban hành
bản văn « không quan trọng bằng
cương lĩnh đảng » này, cho tới giờ cơ quan được xem là « tối cao về quyền dân » vẫn
chưa thoát khỏi trạng thái mê ngủ đáng kinh ngạc.
Nhiều đại biểu đã thừa nhận rằng Quốc hội
đã phó mặc quá nhiều vai trò soạn thảo luật pháp cho khối hành pháp, để khi dự
thảo bên chính phủ chuyển qua thì gần 500 dân biểu chỉ còn biết
« gật ».
Tương tự, hoạt động giám sát của Quốc hội
là hoàn toàn không xứng đáng với khoản kinh phí khổng lồ mà 90 triệu cử tri
phải bỏ ra để nuôi bộ máy có đến hơn 90% là đảng viên và số đại biểu kiêm nhiệm
nhiều hơn hẳn chuyên trách này.
Kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa cũ đã
kết thúc vào tháng 4/2016 với những gương mặt mới được dùng cho khóa XIV. Lần
đầu tiên chủ tịch Quốc hội là nữ giới và đọc lời tuyên thệ. Nhưng thêm một lần
nữa, rất nhiều người dân vẫn mang nặng mối nghi ngờ: liệu Quốc hội có
tránh khỏi bị mang tiếng là « phục
vụ cho các nhóm quyền lực và nhóm lợi ích » hay không? Dù đã thay dàn
nhân sự lãnh đạo mới, nhưng một cơ quan dân cử vẫn luôn bác bỏ quyền tự ứng cử
độc lập của những người dân không phải là đảng viên liệu có đổi được về chất,
hay vẫn giữ nguyên não trạng và tư thế bị coi là « bù nhìn »?
Hãy điểm lại những gì mà Quốc hội cũ đã
bất lực hoặc buông xuôi, và trách nhiệm của quốc hội mới sẽ ra sao nếu vẫn tái
diễn nạn buông thả.
« Hội
đồng Hiến pháp » và « sở hữu đất đai
toàn dân »
Năm 2013, Hội đồng Hiến pháp - một cơ chế
mới đã được đưa vào Dự thảo Hiến pháp 2013 để lấy ý kiến nhân dân. Nhưng khi
Hiến pháp 2013 được thông qua thì không còn thấy có bất kỳ khái niệm nào về Hội
đồng Hiến pháp nữa. Sự kiện này cho thấy Quốc hội không quan tâm tới Hội đồng
Hiến pháp - một hội đồng gắn liền với quyền lợi của Quốc hội và cũng là quyền
lợi của nhân dân. Điều đó cũng cho thấy Nhà nước, Chính quyền và Quốc hội
rất vô cảm trong mối quan hệ với nhân dân. Và trên hết là vô tâm.
Sự vô tâm cùng cực đó khiến vấn đề sở hữu
đất đai đã không hề được thay đổi. Cho tới nay, Hiến pháp vẫn khẳng định đất
đai là « sở hữu toàn dân »,
mặc dù đã có rất nhiều ý kiến đánh giá là sở hữu đất đai toàn dân hoàn toàn
không còn phù hợp với cơ chế vận động thị trường hiện thời. Đặc biệt là những
hậu quả ghê gớm gây ra bởi vô số các nhóm lợi ích bất động sản kết hợp với các
nhóm thân hữu chính trị trong suốt vài chục năm qua bởi « chế độ sở hữu toàn dân ».
Tính chất « toàn dân » đã giúp chế độ có thể trưng thu đất
đai một cách vô tội vạ với giá đền bù rẻ mạt, có khi thấp bằng 1/10 tới 1/20
giá thị trường, thậm chí chỉ bằng 1/100 giá thị trường, gây bất công xã hội ghê
gớm và châm ngòi cho hàng chục ngàn cuộc khiếu kiện lớn nhỏ hằng năm trong dân
chúng, tạo ra một tầng lớp dân oan thảm thương lên đến hàng triệu người trên
mảnh đất Việt Nam ngày càng bị bóp vụn.
Trong rất nhiều dự án được gọi là « phát triển kinh tế xã hội »,
chủ đầu tư đã cấu kết với chính quyền địa phương đền bù giá rẻ mạt đối với
người dân, thu hồi đất một cách tùy tiện, sẵn sàng cưỡng chế và thậm chí gây
chết người. Nhưng sau đó chỉ sử dụng khoảng 1/3 diện tích để thực hiện dự án
như họ đã mô tả trong luận chứng kinh tế kỹ thuật, còn lại 2/3 là phân lô bán
nền kiếm lời.
Trong khi đó ngay cả ở Trung Quốc, đất
nước đã sinh ra hàng trăm ngàn cuộc khiếu kiện lớn nhỏ của người dân mỗi năm,
cũng đã phải thực hiện những cải cách nhất định. Từ đầu năm 2013, chính Ủy ban
Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra một văn bản yêu cầu các
chính quyền địa phương không được thu hồi đất bất hợp lý đối với người dân, đe
dọa thi hành kỷ luật những quan chức ăn chênh lệch giá đền bù.
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều ý kiến yêu
cầu phải chuyển sở hữu đất đai sang hình thức đa sở hữu: vừa sở hữu toàn
dân, vừa sở hữu tập thể và phải có cả sở hữu tư nhân; không thể thu hồi đất vô
tội vạ, không được thu hồi đất đối với các dự án kinh tế xã hội là loại dự án
đã gây ra bất công lớn nhất và tình trạng dân oan kéo đi khiếu kiện nhiều nhất
trong những năm vừa rồi.
Đi ngược lại dòng chảy lịch sử
Từ cuối năm 2011 cho đến nay, Quốc hội
vẫn không triển khai điều 69 của Hiến pháp năm 1992 về Luật lập hội và Luật
Biểu tình. Đó là hai đạo luật cực kỳ quan trọng liên quan tới quyền lợi người
dân, phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam
đã tham gia ký kết vào năm 1982. Đây chính là những điều cốt tử mà các nhóm trí
thức cũng như người dân quan tâm và kiến nghị rất nhiều lần, nhưng đã hoàn toàn
bị chìm xuồng trong tư thế « ngủ
ngày » của Quốc hội.
Về mặt tổ chức nhà nước, Hiến pháp 2013
đã không đề cập chút nào tới một cơ chế đang thịnh hành tại các nước dân chủ
phát triển, mang đến sự thịnh vượng cho dân chúng. Đó là cơ chế Nhà nước pháp
quyền, kèm theo là cơ chế tam quyền phân lập.
Trong thực tế, tư tưởng Đảng trị vẫn bao
trùm trên tất cả các lãnh vực ở Việt Nam, trong đó có thể gọi Hiến
pháp là « nạn nhân ». Đó cũng là hệ quả của não trạng bảo thủ đến mức
cực đoan, cho thấy kinh tế quốc doanh vẫn là chủ đạo, bất chấp tình hình có ít
nhất phân nửa các tập đoàn kinh tế nhà nước đang bê bết như hiện nay. Nền kinh
tế suy thoái, nợ công và nợ xấu tràn ngập, đời sống người dân vô cùng khốn khó.
Trong khi đó các tập đoàn lợi ích cũng như các nhóm thân hữu chính trị lũng
đoạn vẫn mặc sức tung hoành.
Một khi tình thế đã đến mức nguy khốn như
hiện nay nhưng Quốc hội không chịu thay đổi Hiến pháp, thì có nghĩa là Quốc hội
và Hiến pháp ấy đã đi ngược lại dòng chảy của lịch sử, phủ nhận sự vận động của
những điều kiện khách quan, đang làm chậm tiến trình phát triển kinh tế xã hội
ít nhất vài ba chục năm.
Nếu Quốc hội khóa XIV không thay đổi bất
kỳ nội dung quan trọng nào của Hiến pháp, sẽ tất yếu làm tăng tình trạng lobby
chính sách, làm sai chính sách phổ biến. Các nhóm lợi ích, các nhóm thân hữu
chính trị sẽ tiếp tục lợi dụng những chính sách sai lầm để trục lợi. Do đó càng
gây ra phản ứng ngày càng mạnh mẽ, ngày càng quyết liệt của người dân, và có
thể sinh ra hàng loạt cuộc biểu tình như xã hội đã và đang chứng kiến trên khắp
các miền đất nước, đặc biệt ở các vùng nông thôn miền Bắc như Bắc Giang, Thái
Bình, Nam Định, Hưng Yên… và ngay cả tại ngoại thành Hà Nội là Dương Nội.
Thay đổi hay là chết!
Nếu Quốc hội và Chính phủ Việt Nam không
cải cách thì với quá nhiều khó khăn cùng tư thế đang sa cả hai chân vào một
cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc như hiện nay, chính thể Việt Nam sẽ hoàn
toàn tự đóng cửa lối ra.
Nếu không cải cách Hiến pháp ngay vào đầu
Quốc hội khóa XIV thì sẽ không còn bất kỳ một cơ hội nào nữa.
Vào đầu năm 2016, những tổ chức tài chính
thế giới và là những chủ nợ lớn nhất của Việt Nam là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á đã chính thức ngừng các khoản
cho vay ưu đãi. Bà Lagarde, tổng giám đốc của IMF, thậm chí còn yêu cầu chính
phủ Việt Nam phải “cải cách lần hai”.
Hãy nói thẳng: Việt Nam sẽ không thể giải
quyết tình trạng khốn quẫn về kinh tế và ngân sách bằng thái độ hoàn toàn không
thành tâm về chính trị.
Cải cách quyền dân lại liên quan đến chế
độ bầu cử trực tiếp đối với Thủ tướng và Chủ tịch nước - một nhu cầu chính đáng
của người dân nhưng đã từ rất lâu người dân Việt không còn quyền bầu trực tiếp.
Không những người dân không được trực tiếp bầu nhân sự cấp cao, số phận ngư dân
và chủ quyền lãnh thổ còn bị Quốc hội hầu như bỏ mặc suốt nhiều năm qua.
« Dấu ấn » tệ hại nhất của Quốc hội khóa cũ là vẫn không ra nổi một
nghị quyết nào về Biển Đông từ giữa năm 2014, khi giàn khoan Hải Dương Thạch Du
981 của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam, cho đến giờ phút này.
Còn Quốc hội mới sẽ ra sao?
Phải thay đổi!
Thay đổi hay là chết!
PHẠM CHÍ DŨNG (Bài đăng blog
VOA ngày 16.05.2016)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.