Cuộc sơ tán dân từ thành thị về nông thôn cuối năm 1964 đầu năm 1965 đã làm thay đổi khá nhiều cuộc sống nông thôn miền Bắc.
Điều được nhà thơ Tố Hữu gọi là "dập dìu hợp tác", "sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn", "nông thôn có máy làm trâu thay người" chỉ có trong thơ ca, trong sự tưởng tượng của thi sĩ thôi. Chứ nông thôn miền Bắc từ ngày giải phóng thật nghèo nàn buồn bã ảm đạm, sau chút náo nức ban đầu.
Cứ tầm gà lên chuồng là tất cả chìm vào yên ắng, màn đêm. Dầu hỏa là mặt hàng phân phối, mỗi hộ chỉ được mua 1 lít/tháng, thậm chí cả bao diêm vài chục que cũng phân phối nên thường có chuyện sang hàng xóm "xin lửa". Độ 9 - 10 giờ tối là tắt đèn để tiết kiệm dầu. Gần như người ta rút hết vào nhà, đường làng vắng tanh, ít tiếng nói cười. Điều này tôi biết chắc chắn và chính xác hơn các nhà thơ, hơn Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên vốn chỉ "khép cửa phòng văn hì hục viết".
Có dân phố về, vui hẳn. Ít ra họ cũng là "tầng lớp trên" hiểu biết rộng, nhiều, thông thạo sự đời, có văn hóa cao, kinh tế khá hơn, tiền bạc "rủng rỉnh" hơn người bản địa. Quần áo sặc sỡ nhiều màu hơn, nhiều kiểu hơn chứ không như đại chúng nâu sồng hoặc đen. Khi ấy tôi đã gần lên 10, từng tặc lưỡi sao các anh chị ấy nhiều kiểu quần tây sơ mi đẹp thế.
Lần đầu tiên tôi biết vải kaki trong khi mình chỉ xanh chéo Nam Định là hết mức. Nhiều chị mặc phin nõn, valide. Các anh để tóc đít vịt, áo chim cò. Nhiều bác nhiều chị tóc phi dê. Ai cũng guốc dép đi hằng ngày, nhiều người còn diện giày. Vài anh có cả dép nhựa Tiền Phong trắng quai hậu, chí ít cũng dép nhựa Dân Sinh. Hầu hết họ đều biết đàn hát, bọn trẻ con thì thạo nhiều trò chơi, nhất là chơi bi, súng bắn diêm, nuôi cá cảnh, đánh tú lơ khơ. Chúng khác hẳn đám tôi chỉ chơi khăng chơi đáo, bật tường ăn diêm, đánh trận giả. Chúng văn minh hiện đại hơn hẳn, phục lăn.
Tối tối, các bác anh chị và đám cùng tuổi tôi thắp đèn ngồi trò chuyện râm ran, các bà các chị đan len, nhào bột mì rán ăn tối. Hình như người thành phố đã quen ăn kiểu công nghiệp, có đủ bữa sáng, bữa trưa, bữa chiều, bữa tối (lót dạ trước khi đi ngủ), không như nông dân chỉ 2 bữa chính là sáng (6 giờ) và chiều (5 giờ), tối nhịn, ôm bụng đói đi ngủ. Người phố, dù phải đi sơ tán, vẫn có cuộc sống mà nông dân mơ ước. Thày tôi bảo, nhưng bà con phải bỏ nhà bỏ cửa đi sơ tán thế này là tội lắm rồi, nên chả đứa nào tị nạnh.
Đoàn dân phố sơ tán đầu tiên về làng Trà Phương tôi đông nhất khoảng tháng 9.1964. Khi ấy tôi bắt đầu vào lớp 4, lớp cuối cùng của cấp 1. Nhà tôi đón người chị họ và các cháu con chị cùng về, có cả cặp sinh đôi chưa đầy năm, vui lắm. Hôm sau, tôi vào trong làng coi hợp tác xã tổ chức đón một đoàn được sắp xếp cư ngụ xóm trong, tập trung ở sân hợp tác xã Thụy Sơn. Trong số ấy, có nhiều bạn sẽ học với lứa chúng tôi suốt mấy năm ròng, từ lớp 4 tới hết lớp 7.
Vẫn còn nhớ cả khuôn mặt, dáng vẻ, nụ cười của các bạn phố, những Nguyễn Ngọc Châm, Hoàng Liên Hợp, Hoàng Liên Thái (2 Hoàng này là chị em ruột), Nguyễn Thanh Thủy, Hồ Văn Sử, Trần Đức Hậu, Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Văn Bình, Trần Hùng, Dương Thế Hùng... Họ đều xinh đẹp, trắng trẻo, hoạt bát hơn bọn trẻ nông dân chúng tôi nhiều. Chị Hợp còn khoác theo cây đàn ghi ta, rất điệu.
(Còn tiếp)
NGUYỄN THÔNG 15.07.2024
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.