Tàu Hải Dương Địa Chất 8 Trung Quốc tự tiện ngang dọc tại bãi Tư Chính của Việt Nam từ ngày 03/07 đến 02/08/2019. |
(Viet-Studies 01/08/2019) Thế kỷ 21 có nhiều nghịch lý, vì biến số (variables)
ngày càng tăng và hằng số (constants) ngày càng giảm, làm chính trị quốc gia và
trật tự thế giới biến đổi khó lường. Trong khi thế giới thay đổi quá nhanh
(theo biến số) thì tư duy con người thay đổi quá chậm (theo hằng số), như một
nghịch lý trong nhận thức về thế giới. Sử gia Yuval Harari cho rằng thế kỷ 21
là thời kỳ “hậu sự thật” (post truth) với nhiều “tin vịt” (fake news), làm người
ta dễ ngộ nhận.
Bài
này đề cập đến mấy vấn đề lớn có nhiều biến số, đang thách thức Việt Nam tại
bước ngoặt mới năm 2019: (1) Trung Quốc đang bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính.
(2) Đồng bằng sông Cửu Long đang gặp tai họa do quá nhiều đập thủy điện. (3)
Đối đầu Mỹ-Trung có thể làm cho Việt Nam “lợi bất cập hại”. (4) Trước bức tranh
địa chính trị đầy bất trắc, muốn thoát hiểm Việt Nam phải quyết điều chỉnh
chiến lược và cải tổ thể chế, trước khi quá muộn.
Khủng hoảng bãi Tư Chính
Sự
kiện giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 (5/2014) là một cú sốc, gây khủng hoảng
Biển Đông, xô đẩy Việt Nam về phía Mỹ, như “hệ quả không định trước”
(unintended consequence). Nhưng sự cố đó có lẽ chưa đủ mạnh để thắng nguyên
trạng. Quan hệ Trung-Việt tuy xa hơn “nhưng không quá xa”, và quan hệ Mỹ-Việt
tuy gần hơn “nhưng không quá gần” (Alexander Vuving). Việt Nam vẫn cố giữ thăng
bằng với Mỹ-Trung, với chính sách quốc phòng “ba không”.
Tháng
7/2019, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và tàu hải cảnh Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tại bãi Tư Chính, gây khủng hoảng Biển Đông
một lần nữa và đang xô đẩy Việt Nam về phía Mỹ. Trước đó (7/2017 và 3/2018)
Việt Nam đã bị họ đe dọa phải bỏ dở dự án “Cá Kiếm Nâu” (lô 136) và “Cá Rồng
Đỏ” (lô 07-05).
Đồng
thời, Trung Quốc đã tập trận, bắn thử tên lửa đạn đạo diệt hạm (ASBM) và cho
một phi đội gồm 3 chiếc Su-35 hiện đại (trong số 24 chiếc) tập tấn công mục
tiêu trên Biển. Theo Derek Grossman (RAND), Biển Đông là nơi lý tưởng để PLA
thử tác chiến trên biển, vừa để rút kinh nghiệm, mà không sợ Mỹ can thiệp, và
có thể thắng trận. (“Vietnam Is the Chinese Military’s Preferred Warm-Up Fight”, Derek
Grossman, Diplomat, May 14, 2019).
Ngày 19 và 20/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại
Giao Việt Nam và Mỹ đã lên
tiếng phản đối Trung Quốc và đòi họ rút
tàu về. Mỹ là quốc gia đầu tiên (và đến
nay là duy nhất) đã lên tiếng gián tiếp ủng hộ Việt Nam, trong khi các
nước khác là đối tác chiến lược với Việt Nam vẫn chưa lên
tiếng. Tuy lập trường của Trung Quốc trái với luật biển (UNCLOS) và phán quyết
của PCA, nhưng truyền thông của họ hoạt động có lẽ hiệu quả hơn Việt Nam.
Trong khi đó (ngày 24/7/2019)
Trung Quốc đã công bố Sách Trắng có tựa đề “Quốc phòng Trung Quốc trong kỷ
nguyên mới”, trong đó cáo buộc “Mỹ đang làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông”.
Đây là Sách Trắng mới của Trung Quốc (kể từ năm 2015), trong khi Việt Nam vẫn chưa có Sách
Trắng mới (kể từ năm 2009). Riêng về Biển Đông, Sách Trắng mới của Trung Quốc
đã khẳng định “tình hình nhìn chung vẫn ổn định và đang cải thiện, trong khi các
nước đang điều tiết những mối nguy cơ và sự khác biệt một cách hợp lý”.
Gần đây, hội nghị các bộ
trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM-13) tại Bangkok (11/7/2019) không đề cập đến
Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, và tàu hải cảnh của họ vi phạm vùng EEZ của
Philippines, Malaysia, và Việt Nam. Hội nghị ngoại Trưởng ASEAN (31/7/2019) tuy ra được tuyên bố chung
về Biển Đông, nhưng không nêu đích danh Trung Quốc. Tình hình Biển Đông khủng
hoảng do Trung Quốc bắt nạt các nước khu vực, nhưng họ khẳng định “đang có hòa
bình và ổn định tại Biển Đông, không cần nước ngoài can thiệp”.
Đằng sau việc cho tàu hải
cảnh quấy rối và đe dọa hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam tại bãi Tư
Chính, Trung Quốc còn có một thông điệp nữa là không ai có thể thăm dò và khai
thác dầu khí tại “vùng biển tranh chấp” nếu không có sự đồng ý của họ. Nói cách
khác, trong khi Trung Quốc chưa thể khai thác nguồn dầu khí tại đây, thì cũng
không ai được đụng tới. Ý đồ của Trung Quốc là biến bãi Tư Chính (nằm trong
vùng EEZ của Việt Nam) thành “vùng biển tranh chấp” và áp đặt “đường lưỡi bò”
để kiểm soát như “cái ao của họ”.
Trung Quốc chắc nhận thấy
rằng cứ bắt nạt và cưỡng ép từng nước sẽ có kết quả, với chiến thuật “bẻ từng
chiếc đũa” như “tầm ăn dâu” để thay đổi nguyên trạng trên thực địa và biến nó
thành “chuyện đã rồi” trong một “vùng xám” (grey area) mà họ có lợi thế so sánh
tại Biển Đông. Chắc Trung Quốc sắp tới
sẽ tiếp tục bắt nạt Việt Nam để đạt được mục tiêu, bất chấp phản ứng của các
nước dựa trên luật quốc tế. Chính sách bành trướng của Trung Quốc không hề thay
đổi, vì họ chưa bao giờ tôn trọng luật quốc tế hay tuân thủ phán quyết PCA.
Việt Nam có 67 lô dầu khí
thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, nhưng trong “đường lưỡi
bò” (phi pháp) mà Trung Quốc áp đặt. Lần trước (2017-2018), Việt Nam đã im lặng
chịu thua Trung Quốc ép EVN-Repsol ngừng dự án “Cá Kiếm Nâu” (lô 136-01) và Cá
Rồng Đỏ” (lô 07-05). Lần này, Trung Quốc định quấy rối, ép PVN-Rosneft ngừng dự
án “Lan Tây-Lan đỏ” (lô 06-01). Nếu Việt Nam để mất 2 lô này (hay chấp nhận
chia đôi với Trung Quốc), thì sẽ mất thêm nhiều lô khác, vì tham vọng độc chiếm
Biển Đông của họ.
Tại hội thảo lần thứ 9 về
Biển Đông (CSIS, July 24, 2019), Greg Poling (AMTI Director/CSIS) nói rằng nếu
Mỹ và các nước khu vực không cứng rắn, thì vài năm tới Trung Quốc sẽ kiểm soát
được Biển Đông. Trong khi Malaysia và Việt Nam đã chuyển thái độ từ im lặng nay
lên tiếng mạnh mẽ và tiếp tục khai thác dầu khí, bất chấp Trung Quốc quấy rối
và đe dọa, thì Philippines vẫn tỏ ra mềm yếu, không dám lên tiếng phản đối
Trung Quốc. Theo Poling, nếu kháng cự thì Bắc Kinh sẽ lùi bước, nên “Cách tốt
nhất để giảm thiểu rủi ro không phải là không làm gì cả, mà là củng cố quan hệ
đồng minh với Mỹ. Philippines cần làm rõ bất kỳ một cuộc tấn công nào của Trung
Quốc vào Philippines sẽ dẫn đến can thiệp của Mỹ, đồng thời kiên trì khẳng định
chủ quyền của mình để Trung Quốc hiểu rằng bắt nạt không có kết quả”.
Theo Bonnie Glaser (senior
advisor/CSIS), Việt Nam không có hiệp ước phòng thủ tương hỗ với Mỹ nên dễ bị
Trung Quốc bắt nạt (mà Mỹ không làm gì được). Dù Mỹ có lên tiếng mạnh mẽ nhưng
chưa đủ buộc Trung Quốc rút tàu về. Chắc Trung Quốc đánh giá thấp phản ứng của
Việt Nam. Nếu họ không rút tàu về thì Việt Nam có thể kiện ra tòa và có thể
thắng kiện. Việt Nam nên hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ về quân sự, dù Mỹ không từ
bỏ lập trường trung lập đối với tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Chính quyền
Trump đang “mở rộng phạm vi định nghĩa về lợi ích của Mỹ trong khu vực”, để bảo
vệ quyền hợp pháp của các nước tại Biển Đông. Bonnie Glaser cho rằng điều này
rất quan trọng đối với Việt Nam và Philippines.
Khi Trung Quốc cho tàu hải
cảnh đến vùng biển Malaysia để quấy rối hoạt động của giàn khoan Sapura
Esperanza (ngoài khơi bãi cạn Luconia), báo chí chính thống của Malaysia lúc
đầu cũng không đưa tin (mà chỉ có mạng xã hội lên tiếng). Tại Việt Nam cũng vậy, lúc đầu
Hà Nội đã chỉ đạo báo chí trong nước im lặng (cho đến 19/7/2019). Dường như Malaysia và Việt Nam “không muốn làm
to chuyện”, để âm thầm giải quyết với Trung Quốc. Điều đó dẫn đến nghịch lý lần
này tuy vấn đề nghiêm trọng, nhưng người dân không bức xúc như trước.
Theo Lê Thu Hương (ASPI/ANU),
vừa qua Việt Nam đã giữ im lặng
khá lâu và không cho báo chí đưa tin vì mấy lý do chính. Một là Hà Nội muốn
kiểm soát tâm trạng bức xúc của người dân Việt Nam vốn ghét Trung
Quốc, có thể bùng phát thành biểu tình dẫn đến bạo động như năm 2014 (vì sự
kiện dàn khoan HD-981). Hai là Hà Nội hy vọng có thể vận động Mỹ và các nước
khác lên tiếng phản đối Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam. Nhưng từ năm
2018, khi Việt Nam quyết định hoãn triển khai 15 thỏa thuận hợp tác với Mỹ
(chắc để làm vừa lòng Trung Quốc) hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt (năm 2019) dường
như đang chững lại.
Theo Đô đốc Scott Swift
(former Pacific Fleet Commander), tuy những hoạt động tuần tra vì tự do trên
biển (FONOP) của tàu chiến Mỹ tại Biển Đông là cần thiết, nhưng lâu nay không
hiệu quả vì không gắn kết với một chiến lược lớn mang tầm quốc gia. Scott Swift
cho rằng tuần tra FONOP cần tiến hành cách nhau “4 tuần một lần”, chứ không
phải “6 tuần một lần” như hiện nay, và nên công bố kế hoạch tuần tra FONOP “ba
tháng một lần”, chứ không phải “mỗi năm một lần” như hiện nay. Nhưng ông cũng
cho rằng hải quân Mỹ không nên tham gia bảo vệ các hoạt động thăm dò hay khai thác
dầu khí của các nước khu vực.
Để răn đe các hành động đe
dọa xâm lấn và bắt nạt các nước láng giềng của Trung Quốc tại Biển Đông và biển
Hoa Đông, “Dự luật Trừng phạt vì Biển Đông và biển Hoa Đông” đã được 13 Thượng
nghị (của cả hai đảng) do TNS Marco Rubio đưa ra Quốc Hội (23/5/2019). Một khi
được thông qua, luật này sẽ là một công cụ hữu hiệu để răn đe Trung Quốc phải
nghĩ lại trước khi có hành động vi phạm luật. Sau vụ đối đầu tại bãi Tư Chính,
ngày 26/7/2019, ông Eliot Engel
(Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ) đã lên án “sự hung hăng của Trung Quốc
tại Biển Đông đang đe dọa Việt Nam và coi thường
luật pháp quốc tế”.
Khủng
hoảng sông Mekong
Sông Mekong dài 4.800km có hệ
sinh thái đa dạng thứ hai thế giới (chỉ sau Amazon), nhưng có quá nhiều đập
thủy điện đã làm dòng sông bị kiệt quệ và biến dạng, đe dọa cuộc sống gần 60
triệu dân trong lưu vực sông Mekong. Riêng Trung Quốc đã làm 11 đập thủy điện
lớn trên thượng nguồn (Lan Thương) sản xuất tới 21.300 megawatt, trong khi Lào
có 64 đập thủy điện (nhưng nhỏ hơn) sản xuất được 6.000 megawatt. Theo các
chuyên gia về môi trường, “Trung Quốc đang kiểm soát hoàn toàn sông Mekong” (Reuters 24/07/2019).
Năm 2016, Trung Quốc đã bất
ngờ giảm lưu lượng nước từ thượng nguồn, làm mực nước sông Mekong giảm xuống
thấp tới mức kỷ lục, gây ra hạn hán lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long. Đến tháng
7/2019, Trung Quốc lại bất ngờ giảm lưu lượng nước, lấy cớ phải bảo trì mạng
tải điện, làm nguồn nước chỉ còn một nửa (thấp nhất từ trước đến nay). Thực ra,
sau sự kiện Bãi Tư Chính, Trung Quốc có thể đóng tất cả các đập trên thượng
nguồn.
Lâu nay, người ta thường đề
cập đến 3 nguyên nhân chính làm giảm thiểu nguồn nước sông Mekong. Một là hạn hán
do lượng mưa quá ít như hệ quả của biến đổi khí hậu (hiện tượng el nino). Hai là
giảm lượng nước xả ra từ đập thủy điện Cảnh Hồng (Vân Nam, Trung Quốc). Ba
là kế hoạch tích nước lại để chạy thử máy phát điện tại đập Xayaburi (Lào). Nói
cách khác, đó là mối đe dọa thường trực đối với đồng bằng sông Cửu Long (Nam
Bộ).
Ngoài 11 dự án thủy điện lớn
tại Vân Nam (như Cảnh Hồng),
Trung Quốc định làm thêm 20 dự án nữa. Ngoài mấy dự án lớn như Xayaburi (năm
2012 bị kiện nhưng không dừng), hay Don Sahong và Pak Beng, từ 4/2019 Lào đang
làm tiếp dự án Pak Lay trên dòng chính của sông Mekong. Kết quả là hàng
chục triệu dân sống trong lưu vực sông Mekong trở thành nạn
nhân của thiên tai (biến đổi khí hậu) và nhân họa (do quá nhiều đập thủy
điện).
Theo Ủy Ban sông Mekong (Mekong River
Commission), mực nước sông Mekong đang ở mức thấp nhất trong
lịch sử. Theo báo cáo của Cục Khí tượng và Thủy văn Lào (18/7/2019) mực nước sông Mekong tại Vientiane thấp nhất trong
vòng 50 năm qua. Bangkok Post (16/7/2019) đưa tin mực nước
sông Mekong ở Thailand đã giảm xuống mức
thấp nhất trong vòng 100 năm qua. Hệ quả khủng khiếp của tình trạng đó là nguy
cơ hạn hán lớn (do thiếu nước từ thượng nguồn) và ngập mặn (từ Biển) đang đe
dọa đồng bằng sông Cửu Long.
Các đập thủy điện (tại Trung
Quốc và Lào) không chỉ làm giảm lưu lượng nước, gây ra hạn hán, mà còn làm giảm
lượng phù sa cho đồng bằng sông Cửu Long, gây xói mòn và làm ngập mặn vùng đồng
bằng ven biển. Theo giới khoa học, thuỷ điện không phải là năng lượng tái tạo
và không sạch vì khí thải vô hình từ lòng hồ nhả ra nhiều (ngang với điện
than). Theo một báo cáo của tổ chức OXFAM, tổn thất kinh tế do các đập vùng hạ
lưu là 7 tỉ USD.
Có thể nói, sự sống còn của
hai vùng kinh tế trọng điểm là đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, với
khoảng 23% tổng dân số cả nước và gần 60% tổng lưu lượng dòng chảy hàng năm ở
Việt Nam, đang bị đe dọa bởi thiên tai và nhân họa. Sông Mekong không chỉ là
vấn đề của Việt Nam với Trung Quốc mà
còn là một vấn đề của “Tiểu vùng Mekong” (Mekong sub-basin). Nói
cách khác, đây là một vấn đề lớn có ý nghĩa chiến lược tại khu vực
“Indo-Pacific”. Vì vậy, các nước “tứ
cường” (Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ) có vai trò rất quan trọng.
Đối
đầu Mỹ-Trung
Sự biến động trong quan hệ
Mỹ-Trung, từ hợp tác chiến lược chuyển sang đối đầu chiến lược, đang làm đảo
lộn chính trị quốc gia và trật tự thế giới. Quá trình đó còn đang định hình và
chưa ổn định trong thời kỳ quá độ. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là trò chơi
quyền lực trong thời kỳ quá độ, mà thời gian, không gian, và hệ quả chưa xác
định. Trong bối cảnh đó, tuy Việt Nam “vừa có lợi vừa
có hại”, nhưng không khéo sẽ “lợi bất cập hại”.
Theo Bloomberg và Politico (29/7/2019), chính quyền Trump đã nói
rõ với Việt Nam rằng họ “phải có
biện pháp để giảm mức thâm hụt thương mại” (gần 40 tỷ USD năm 2018, tăng gấp
đôi so với năm 2014). Theo Lighthizer (USTR) “các doanh nghiệp Mỹ đang đối mặt
với một loạt các rào cản thương mại ở Việt Nam”. Trước đó, Tổng
thống Trump đã gọi Việt Nam là nước “lạm dụng
thương mại tồi tệ nhất”. (Fox News, 26/6/2019). Chỉ số thâm hụt
thương mại là một trong những điều kiện để Việt Nam có thể rơi vào
nhóm các nước thao túng tiền tệ đối với Mỹ, và trở thành mục tiêu tiếp theo bị
Mỹ áp thuế (sau Trung Quốc).
Theo Minxin Pei, “thay đổi quan
trọng nhất là Mỹ áp dụng lập trường đối đầu với Trung Quốc. Cách tiếp cận đó
của Trump thay thế cho chính sách hợp tác kéo dài nhiều thập kỷ, không chỉ dẫn
đến một cuộc chiến tranh lạnh về kinh tế giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới
mà còn làm dấy lên nỗi ám ảnh về xung đột vũ trang ở Biển Đông và Eo biển Đài
Loan”. (“The US Needs to Talk
About China”, Minxin Pei, Project
Syndicate, July 22, 2019).
Nhưng đó không chỉ là quan
điểm riêng của Trump mà các quan chức an ninh quốc gia và các nghị sĩ hàng đầu
của Đảng Cộng hòa và Dân chủ cũng coi Trung Quốc là mối đe dọa lâu dài và
nghiêm trọng nhất đối với vị thế toàn cầu và lợi ích sống còn của Mỹ. Tuy thuế
quan của Mỹ có thể tập trung vào mục tiêu làm suy yếu tiềm năng kinh tế lâu dài
của Trung Quốc, nhưng động lực cơ bản vẫn là làm suy yếu vị thế chiến lược của
quốc gia này.
Về kinh tế, các biện pháp
thuế quan của Trump có thể gây tổn hại cho nền kinh tế Mỹ vì chúng làm đổ vỡ
mối quan hệ kinh tế đã được xây dựng hơn bốn thập kỷ qua. Nhưng về chiến lược,
chính sách Trung Quốc của Trump hoàn toàn đối địch với Trung Quốc. Sự thay đổi
cơ bản này đã gây bức xúc cho một số học giả về Trung Quốc và các nhà hoạch
định chính sách giàu kinh nghiệm của các chính quyền trước. Gần 100 người trong
số đó, bao gồm cả Đảng Cộng hòa và Dân chủ, cũng như những người hay chỉ trích
chính sách và hành vi của Trung Quốc, vừa gửi một bức thư ngỏ kêu gọi Trump
“không nên coi Trung Quốc là kẻ thù”.
Tuy đa số người Mỹ ủng hộ
Trump chống Trung Quốc như “đồng thuận quốc gia mới”, nhưng họ muốn Trump lý
giải chính sách Trung Quốc của Mỹ. Trong một thể chế dân chủ như nước Mỹ, với
một cộng đồng có dân trí cao, người Mỹ không dễ dàng nhắm mắt tin vào quyết
định của một tổng thống như Trump, nhất là về chiến lược đối với Trung Quốc.
Đây là vấn đề hệ trọng không chỉ đối với vận mệnh nước Mỹ mà còn với trật tự
thế giới.
Theo một khảo sát gần đây của
Pew (tháng 8/2018), chỉ có 38% người Mỹ nhìn nhận tích cực về Trung Quốc, trong
khi có tới 47% người Mỹ nhìn nhận tiêu cực. Chỉ có 29% người Mỹ được hỏi cho
rằng sức mạnh quân sự của Trung Quốc là nguyên nhân chính làm cho họ lo ngại,
trong khi có tới 58% người Mỹ được hỏi lo lắng về sức mạnh kinh tế của Trung
Quốc. Điều đó chứng tỏ trong mắt của đa số người Mỹ, mục tiêu chính của quan hệ
với Trung Quốc là bảo vệ lợi ích kinh tế, chứ không phải để bắt đầu một cuộc
đối đầu về địa chính trị.
Nhưng một cuộc đối đầu về địa
chính trị dường như chính là điều mà chính quyền Trump đang muốn tạo ra, làm
cho sự thay đổi chính sách Trung Quốc của Mỹ diễn ra ngoài tầm giám sát của
người dân vì không có tranh luận. Theo Minxin Pei, Một cuộc tranh luận như vậy
là hết sức cần thiết vì phần lớn người Mỹ không biết về mức độ thay đổi trong
chính sách về Trung Quốc của Mỹ. Hệ quả lâu dài của nó khiến Mỹ có nguy cơ rơi
vào một cuộc xung đột không biết bao giờ kết thúc. Trong một nền dân chủ, chính
phủ không thể theo đuổi một cuộc đấu tranh lâu dài với kẻ thù địa chính trị mà
không có sự ủng hộ lâu bền của dân chúng.
Để cuộc tranh luận đáng tin,
chính quyền Trump phải trả lời mấy câu hỏi quan trọng về chính sách Trung Quốc.
Đầu tiên và quan trọng nhất là mục tiêu tối hậu của chính sách đó là gì? Câu
trả lời có thể bao gồm cách làm thay đổi hành vi và chính sách nhất định của
Trung Quốc để ngăn chặn sức mạnh kinh tế và quân sự của họ (hoặc thay đổi chế
độ của họ). Chính quyền Trump còn phải lý giải cách để đạt được các mục tiêu
trên. Liệu chủ trương “tách rời kinh tế” (economic decoupling) được ưu tiên bởi
những quan chức diều hâu về Trung Quốc trong chính quyền Trump, có phải là một chiến
lược hiệu quả và khả thi không?
Các tác giả của bức thư ngỏ
cho rằng những nỗ lực của Mỹ nhằm tách Trung Quốc khỏi nền kinh tế toàn cầu “sẽ
làm tổn hại vai trò và uy tín quốc tế của Mỹ, và làm suy yếu lợi ích kinh tế
của tất cả các quốc gia”. Liệu Mỹ có thể thuyết phục được các nước khác bao gồm
các đồng minh truyền thống, ủng hộ những nỗ lực đó hay không, hay Mỹ sẵn sàng
đơn phương hành động? Những người ký bức thư ngỏ gồm các nhà kinh tế, chính
trị, và tư tưởng nổi tiếng, đưa ra một tuyên bố có đầy đủ cơ sở, cho thấy quan
điểm chung của họ về Trung Quốc. Đã đến lúc chính quyền Trump phải làm rõ tầm
nhìn và mục tiêu của mình.
Bức
tranh địa chính trị
Về chính trị, Trump đang có
lợi thế sau khi kết quả điều tra và điều trần của Robert Mueller làm tiêu tan
hy vọng của phe Dân Chủ muốn luận tội ông (về quan hệ với Nga). Sắp tới, để đối
phó với Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, Trump có thể tăng cường chơi “lá bài
Nga”. Kinh tế Mỹ đang phát triển tốt là một lợi thế lớn của Trump đối với cử
tri Mỹ (dù họ thích hay ghét Trump). Về đối ngoại, chính sách về Trung Quốc của
Trump được sự “đồng thuận quốc gia” của lưỡng đảng và quốc hội cũng như nhiều
người Mỹ có tâm trạng “bài Trung”.
Trong “bức thư ngỏ”, gần 100
nhân sỹ Mỹ không phản đối chính sách Trung Quốc của Trump (về chiến lược), mà
chỉ muốn Trump lý giải và mềm dẻo (về chiến thuật), đừng coi Trung Quốc là kẻ
thù và đừng đối xử quá rắn với các đồng minh truyền thống, làm cho Mỹ bị cô
lập. Nhưng với chủ trương “dọn sạch bãi lầy Washington”, Trump đã làm mất lòng
nhiều người trong giới trí thức và báo chí Mỹ. Đây không phải lần đầu, cũng
không phải lần cuối mà họ lên tiếng chỉ trích Tổng thống Trump trong cuộc tranh
luận lớn (national debate).
Theo Elizabeth Economy (CFR)
“thay đổi chính trị là một trò chơi lâu dài, và trò chơi đó chưa kết thúc”
(Political change is a long game, and the game is not over). Còn Ali Wyne
(RAND) cho rằng “Washington sẽ khôn ngoan nếu
hiểu nguy cơ tất yếu: chấp nhận số phận đóng vai hiện thực. Mỹ và Trung Quốc
không thể che đậy mãi sự khác biệt”. (“America’s China Policy
hasn’t failed, but it needs to be recalibrated”, Ali Wyne, WPR, May 2018).
Dù tiếp kết cục tranh luận
thế nào, đối đầu Mỹ-Trung vẫn là vấn đề quốc tế nổi bật trong thế kỷ này khi
chiến tranh thương mại tiếp tục theo quy luật “vừa đánh vừa đàm”. Trong khi vấn
đề Bắc Triều Tiên đang “giảm nhiệt”, do xu thế hoà hoãn (với Mỹ) và hòa giải
(với Hàn Quốc), thì vấn đề Biển Đông và Đài Loan đang “tăng nhiệt” như thùng
thuốc súng. Đó là hai điểm nóng có nhiều rủi ro trong cuộc đối đầu Mỹ-Trung tại
khu vực Indo-Pacific.
Sau khi quân sự hóa và củng
cố được các tiền đồn tại Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc đã lấn chiếm, gây
căng thẳng tại Scaborough (Philippines) và bãi Tư Chính (Việt Nam). Đó là hai
vị trí xung yếu mà họ tìm cách thâu tóm, vì vậy phải coi bãi Tư Chính là “làn
ranh đỏ” (red line) cũng như Scaborough. Nếu Trung Quốc làm chủ được bãi Tư
Chính, họ sẽ kiểm soát được Biển Đông, khống chế khu vực Indo-Pacific, và tiến
tới thống trị thế giới.
Tại Campuchia, Trung Quốc tìm
cách thâu tóm các vị trí xung yếu, như Sihanoukville và Koh Kong (có căn cứ hải
quân Ream và sân bay Dara Sakor). Tại Việt Nam, họ tìm cách thâu tóm Tây
Nguyên, Vũng Áng, Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc. Trung Quốc còn gây sức ép với
các nước láng giềng để làm các dự án hạ tầng lớn có ý nghĩa chiến lược (như
đường cao tốc Bắc-Nam tại Việt Nam). Các đặc khu và
dự án hạ tầng lớn này nằm trong “sáng kiến Vành đai Con đường” (BRI) nhằm thực
hiện ý đồ chiến lược lớn của Trung Quốc.
Điều đáng lưu ý là Trung Quốc
gây căng thẳng trong bối cảnh TBT/CTN nguyễn Phú Trọng có kế hoạch đi thăm Mỹ
(trong mấy tháng tới). Liệu sức ép này của Trung Quốc có đủ sức ngăn cản chuyến
đi đó không, sau khi Thủ Tướng và Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam đã đi thăm Trung
Quốc, như một cách bày tỏ thiện chí để cân bằng quan hệ với hai nước lớn. Nếu
Trung Quốc gây sức ép mạnh hơn, liệu Việt Nam có ngả hẳn theo
Mỹ? Liệu năm 2019 có chứng kiến một bước ngoặt mới khi Việt Nam điều chỉnh chiến
lược và đổi mới lần hai?
Gần đây, nhiều người lập luận
rằng Việt Nam phải dựa vào Mỹ làm đối trọng với Trung Quốc, nhưng nhiều người
khác lập luận rằng Việt Nam phải dựa vào nội lực của mình, không thể dựa vào
nước khác. Năm 1974, Mỹ không cứu đồng minh khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa,
và năm 1988, Nga cũng không cứu đồng minh khi Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa.
Tuy hai lập luận trên đều có lý nhất định, nhưng không nên đơn giản hóa vấn đề
mà khẳng định hay phủ định vai trò của đồng minh, vì “chỉ có lợi ích quốc gia
là vĩnh viễn”.
Việt Nam đã sai lầm khi cô
đơn và âm thầm đối đầu với Trung Quốc như vừa qua (7/2019) cũng như trước đây
(7/2017 và 3/2018). Ngày 3/7/2014, người phát ngôn
Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: “Việt Nam không loại trừ
các biện pháp pháp lý và Việt Nam sẽ cân nhắc kỹ
lưỡng thời điểm thích hợp để khởi kiện Trung Quốc”. Nhưng 5 năm qua, Việt Nam vẫn chưa kiện
Trung Quốc, làm cho họ càng lấn tới. Dù Trung Quốc không tôn trọng phán quyết
của PCA, nhưng kiện là cơ sở để đấu tranh pháp lý và truyền thông. Dư luận
khuyên Việt Nam quốc tế hóa vấn
đề Biển Đông và kiện Trung Quốc ra PCA (như Philippines) trước khi quá
muộn. Theo Alexander Vuving (APCSS/Hawaii) nếu Việt Nam kiện sẽ thắng
100%.
ASEAN và “Tứ cường” (Mỹ,
Nhật, Úc, Ấn) cần lên tiếng kịp thời và hành động mạnh mẽ để bênh vực Việt Nam khi bị Trung Quốc
bắt nạt. Biển Đông không chỉ là không
gian sinh tồn của Việt Nam (và mấy nước ven
biển) mà còn là nơi hội tụ lợi ích chiến lược của các nước khác. ExxonMobil và PVN cần triển khai sớm dự án Cá
Voi Xanh (lô 118) và liên kết với các đối tác khác (như Nhật, Úc, Ấn) để cùng
khai thác dầu khí tại bãi Tư Chính “bất chấp Trung Quốc” như ông John Bolton (cố vấn An ninh Quốc gia) đã
tuyên bố (17/10/2018).
Thay
lời kết
Bàn cờ Biển Đông giống như
“cờ vây” (Weiqi) nên rất khó chơi. Mỹ và Trung Quốc tuy đối đầu (về chiến lược)
nhưng vẫn vờn nhau “vừa đánh vừa đàm” (về chiến thuật). Việt Nam tuy có quan hệ
đối tác chiến lược với 12 nước, nhưng khi bị bắt nạt bởi Trung Quốc (là một
“đối tác chiến lược toàn diện”) thì vẫn cô đơn, không có đồng minh thực sự để
bênh vực. Đó là một sự thật trớ trêu và là một nghịch
lý đáng xem lại về nguyên tắc “ba không”.
Muốn tìm giải pháp khả thi để
Việt Nam thoát hiểm lúc
này rất khó như (như nghịch lý), vừa phải tránh ngộ nhận (nhầm lẫn chiến lược
với chiến thuật, mục tiêu với phương tiện), vừa phải chơi cờ thế (hedging) để từng bước thoát Trung. Người Việt phải coi lợi ích quốc gia trên hết, vì sa vào lợi ích nhóm sẽ
tự phân hóa và làm triệt tiêu mất sức mạnh dân tộc. Nói cách khác, Việt Nam phải điều chỉnh
chiến lược và cải tổ thể chế, trước khi quá muộn.
Tham
khảo
1. “America’s China Policy
hasn’t failed, but it needs to be recalibrated”, Ali Wyne, May 2018, in
“US-China Rivalry in the Trump Era”, WPR Report, October 2018.
2. “Vietnam Is the Chinese
Military’s Preferred Warm-Up Fight”, Derek Grossman, Diplomat, May 14, 2019.
3. “The US Needs to Talk
About China”, Minxin Pei, Project
Syndicate, July 22, 2019.
4. “Beijing’s South China Sea stance is driving
Vietnam into America’s arms”, Le Hong Hiep,
South China Morning Post, July 25, 2019.
5. Presentations at the 9th
Seminar on the South China Sea, CSIS, July 24, 2019.
6. “Here’s How China and America’s Missiles in the
South China Sea Stack Up”, David Axe, National Interest, July 31, 2019.
NQD.
1/8/2019.
NGUYỄN QUANG DY
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.