(VietStudies 15/08/2019) Biển Đông khủng hoảng lần 1 khi Trung Quốc
bất ngờ đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 tại vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
của Việt Nam (tháng 5-7/2014), làm Hà Nội bị sốc và quan hệ hai nước khủng hoảng.
Đồng thời, Trung Quốc còn ráo riết thay đổi thực địa bằng bồi đắp và quân sự
hóa các đảo/đá mà họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa, để kiểm soát Biển Đông
theo “đường chín đoạn”, vi phạm trắng trợn
luật biển quốc tế năm 1982 (UNCLOS).
Biển Đông khủng hoảng lần 2 khi Trung Quốc
đưa tàu thăm dò địa chấn Hải Dương Địa Chất 8 và nhiều tàu hải giám có vũ trang
vào vùng EEZ của Việt Nam gần bãi Tư Chính (từ 3/7/2019) để thăm dò địa chấn và
quấy rối hoạt động khoan dầu khí của Việt Nam và đối tác. Hành động này vi phạm
luật pháp quốc tế và phán quyết của PCA. Nó là bước tiếp theo sự kiện Trung Quốc
dùng vũ lực đe dọa Việt Nam và Repsol (Tây Ban Nha) phải dừng dự án dầu khí tại
mỏ “Cá Kiếm Nâu” (lô 136-01) và “Cá Rồng Đỏ” (lô 07-03) vào tháng 7/2017 và
3/2018.
Tháng 5/2014 và 7/2019 đã đánh dấu hai bước
ngoặt làm thay đổi bức tranh địa chính trị tại Biển Đông. Ngày 8/8/2019, theo
các nguồn tin quốc tế, Trung Quốc đã rút tàu Hải Dương Địa Chất 8 về đá Chữ Thập
(tại Trường Sa). Nhưng giới phân tích cho rằng đây chỉ là rút tạm thời để tiếp
nhiên liệu chứ không phải rút hẳn, vì họ vẫn để lại tàu hải giám tại bãi Tư
Chính. Thật là ngây thơ và hồ đồ nếu cho rằng Trung Quốc sẽ rút tàu Hải Dương Địa
Chất 8về trước phản ứng cứng rắn của Việt Nam và dư luận quốc tế. Theo VOA
(13/8/2019) tàu HD-8 đã quay trở lại bãi Tư Chính. (Hải Dương 8 quay trở lại
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, VOA, August 13, 2019).
Khủng hoảng lần 2
Biển Đông khủng hoảng lần 2 không còn là
tranh chấp chủ quyền biển đảo và tài nguyên dầu khí như trước, mà đây là hành động
xâm lược bằng lực lượng hải giám có vũ trang của Trung Quốc. Họ muốn biến vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành “khu vực tranh chấp” theo chiến lược “vùng
xám” (grey area) và “tam chủng chiến pháp” (three warfare doctrine). Trung Quốc
không chỉ bắt nạt Việt Nam mà còn thách thức cộng đồng quốc tế.
Trung Quốc không bao giờ từ bỏ tham vọng
bành trướng để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” (China Dream). Sau khi chiếm
Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988), Trung Quốc cho rằng nay họ đã đủ
mạnh để độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ, bắt nạt các nước láng giềng như
chư hầu, và quân sự hóa nhằm thay đổi cục diện Biển Đông.
Trung Quốc tìm cách chiếm Scarborough
shoal (của Philippines) và bãi Tư Chính (của Việt Nam) là hai vị trí có ý nghĩa
chiến lược trong bàn cờ Biển Đông. Họ đã chiếm Scarborough (6/2016) sau một cuộc
đối đầu (standoff) mà Mỹ bỏ rơi Philippines. Trung Quốc đang chờ thời cơ để
quân sự hóa Scarborough cũng như chiếm đảo Thị Tứ và bãi Tư Chính. Nhưng đây là
“lằn ranh đỏ”, vì không chỉ là tranh chấp song phương giữa Trung Quốc với Việt
Nam và Philippines mà đã trở thành vấn đề an ninh quốc tế đối với trục quan hệ
Mỹ-Trung.
Trước đây, Trung Quốc đã ép Việt Nam phải
dừng hợp tác với Repsol (Tây Ban Nha) tại mỏ “Cá Rồng Đỏ”. Nay Trung Quốc muốn
ép Việt Nam phải dừng hợp tác với Rosneft (Nga) tại mỏ “Lan Đỏ & Lan Tây”,
và không được thuê dàn khoan của Nhật. Trung Quốc còn muốn ép Việt Nam không được
hợp tác với ExxonMobil (Mỹ) tại mỏ khí “Cá Voi Xanh”. Nói cách khác, Trung Quốc
muốn Việt Nam chỉ hợp tác với họ để “cùng khai thác” dầu khí. Có thể nói, Việt
Nam càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới tại Biển Đông.
Khi Trung Quốc ngang nhiên cho tàu xâm phạm
chủ quyền Việt Nam, để thăm dò địa chấn và quấy rối hoạt động dầu khí của Việt
Nam và đối tác trong vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam không đủ sức răn đe để
ngăn chặn. Trung Quốc có thể cho tàu thăm dò hay giàn khoan xâm phạm chủ quyền
Việt Nam tại bãi Tư Chính hoặc một nơi nào đó, để thực hiện ý đồ của họ là biến
vùng biển này thành cái ao nhà của họ theo “đường chín đoạn”.
Tuy Trung Quốc có lợi thế tương đối ở Biển
Đông, nhưng quyền lực của họ không phải tuyệt đối mà phụ thuộc nhiều vào hệ quả
chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Một khi kinh tế Trung Quốc bị suy thoái, dự trữ
ngoại hối và thị trường chứng khoán suy sụp, thì sức mạnh của họ ở Biển Đông
cũng bị suy giảm theo. Giới hạn của quyền lực là một bài học mà các siêu cường
thường hay quên trong các “cuộc đọ sức bất đối xứng” (asymmetric fight).
Lần này, Việt Nam tuy đã rút kinh nghiệm
để đối phó với Trung Quốc tốt hơn, nhưng vẫn phải phản ứng có chừng mực. Tuy
nhiên lập trường của Việt Nam ngày càng cứng rắn, không chịu lùi bước khi bị
Trung Quôc bắt nạt. Việt Nam đã cho các tàu cảnh sát biển bám sát để ngăn chặn
các tàu Trung Quốc. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối
Trung Quốc (16,19/7/2019), và Bộ Ngoại giao Mỹ đã lên tiếng ủng hộ (20/7/2019).
Dư luận trong và ngoài nước thúc giục Việt Nam quốc tế hóa và kiện Trung Quốc
ra PCA.
Phản ứng của các nước
Về phản ứng của các nước có liên quan,
Carl Thayer cho rằng “Việt Nam đã phải thất vọng về phản ứng của cộng đồng
quốc tế, trừ Mỹ” (VOA, August 9, 2019). Có thể nói Mỹ là cường quốc đầu
tiên (nếu không phải duy nhất) đã gián tiếp ủng hộ Việt Nam. Trước tình hình bất
an tại khu vực, Mỹ đã điều tàu sân bay USS Ronald Reagan tới Biển Đông
(6/8/2019) nhưng đã cập bến Philippines, chứ không phải Việt Nam. Nói cách
khác, Mỹ vẫn chưa có hành động trực tiếp và hiệu quả nào để răn đe và đối phó với
Trung Quốc tại bãi Tư Chính.
Có thể hiểu và lý giải phản ứng của Mỹ
theo mấy cách. Thứ nhất, Mỹ chỉ muốn đảm bảo nguyên tắc tự do hàng hải và hàng
không, chứ không can thiệp trực tiếp vào tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Thứ
hai, dù Mỹ muốn tăng cường hợp tác chiến lược với Việt Nam, nhưng hai nước vẫn
chưa phải là đối tác chiến lược. Thứ ba, năm ngoái Việt Nam đã quyết định ngừng
15 chương trình hợp tác với Mỹ (cho 2019), chắc để làm vừa lòng Trung Quốc.
Theo Nikki Haley (cựu đại sứ Mỹ tại Liên
Hiệp Quốc), Tập Cận Bình đã thủ tiêu mất “khái niệm hòa đồng”
(convergence) nên thái độ “cứng rắn về thương mại chỉ là bước đầu”. Mỹ cần
“thay đổi lăng kính để xem xét vấn đề luật lệ ngoại thương của Mỹ, chuỗi
cung ứng quốc tế, đầu tư trong nước, bảo vệ bản quyền, và các ưu đãi cho công
nghệ quốc phòng cốt lõi”.
Nikki Haley (một ứng cử viên tổng thống
trong tương lại) cho rằng “bản chất cực đoan của chiến lược an ninh quốc gia
Trung Quốc chỉ bộc lộ rõ trong mấy năm gần đây…Khi điều chỉnh chiến lược an
ninh quốc gia để đối phó với Trung Quốc, Mỹ muốn khuyến khích các nước đồng
minh điều chỉnh chiến lược của họ…Trung Quốc không chỉ đòi hỏi “cả chính phủ”
mà còn “cả quốc gia” phải đáp ứng…May mắn là chính quyền được sự ủng hộ của tất
cả các phía để đối phó với chính sách mới hung hăng của Trung Quốc. Chúng ta phải
hành động ngay bây giờ, trước khi quá muộn. Cái giá phải trả rất cao, có thể là
sống còn”. (How to Confront an Advancing Threat From China, Nikki Haley,
Foreign Affairs, July 18, 2019).
Theo Bennett Murray, Nga đang lặng lẽ ủng
hộ Hà Nội trong vụ đối đầu mới với Bắc Kinh. “Đối với Việt Nam, gắn khai
thác dầu khí với chiến lược của các nước lớn có lẽ là cơ hội tốt nhất để duy
trì hoạt động khai thác dầu khí trong “đường chín đoạn”. (Vietnams Strange
Ally in Its Fight With China, Bennett Murray, Foreign Policy, August 1, 2019).
Tuy Nga là nguồn cung cấp vũ khí lớn nhất
cho Việt Nam, nhưng thường giữ thái độ im lặng trước tranh chấp chủ quyền tại
Biển Đông vì quan hệ của họ với Trung Quôc. Putin đã từng ủng hộ Trung Quốc khi
có phán quyết của PCA (7/2016), “Nga đoàn kết và ủng hộ lập trường của Trung
Quốc”. Gần đây, Nga còn tỏ ra gần gũi hơn với Trung Quốc như một lá bài
trong bàn cờ nước lớn với Mỹ. Nhưng sau khi báo cáo của Robert Mueller giúp
Trump cơ hội thoát khỏi bị luận tội, Trump có thể lại chơi “lá bài Nga”. Nay
Rosneft (của Nga) là đối tác của PVN (Việt Nam) để thăm dò dầu khí gần bãi Tư
Chính (lô 06-01) nhiều người hy vọng Nga ủng hộ lập trường của Việt Nam đang đối
đầu với Trung Quốc tại bãi Tư Chính.
Về phản ứng của Úc, Carl Thayer cho biết
đại sứ Việt Nam tại Úc đã bày tỏ lo ngại về việc báo chí Úc không đăng tải
thông tin về sự kiên bãi Tư Chính và chính phủ Úc không có bình luận gì (tuy Úc
là một trong “tứ cường” tại Indo-Pacific). Theo SBS News (August 8, 2019),
Andrew Hastie (Chủ tịch Ủy ban Tình báo và An ninh của Quốc hội Úc) đã cảnh báo
là Úc đã đánh giá thấp Trung Quốc và nhắc lại bài học về Đức Quốc Xã những năm
1930. Andrew Haslie phản ánh sự phân hóa trong chính giới Úc về chính sách với
Trung Quốc.
Theo Haslie, Úc đang đứng trước thách thức
lớn nhất về an ninh, kinh tế, và dân chủ trong thập niên tới khi Trung Quốc và
Mỹ cạnh tranh làm bá chủ toàn cầu. “Thập niên tới sẽ thử thách nền dân chủ của
chúng ta, kinh tế của chúng ta, liên minh và an ninh của chúng ta, mà trong lịch
sử Úc chưa từng có…Lúc này, chỗ yếu lớn nhất của chúng ta không phải là hạ tầng
mà là tư duy… Sự thất bại về nhận thức sẽ làm chúng ta yếu kém về thể chế…Nếu
chúng ta không hiểu thách thức trước mắt, thì chủ quyền và tự do của chúng ta sẽ
bị suy giảm”.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper và Ngoại
trưởng Mike Pompeo đã đến Úc (4/8/2019) để trao đổi với các bộ trưởng đồng cấp
về tình hình khu vực (và Biển Đông). Hai bên đã bày tỏ lo ngại về việc Trung Quốc
sử dụng viện trợ như một loại “vũ khí” để mở rộng ảnh hưởng của họ đối với các
quốc gia nhỏ hơn trong khu vực, nơi có tuyến đường hàng hải rất quan trọng và
nguồn tài nguyên phong phú. Thủ tướng Việt Nam đã thăm Úc (3/2019) và nâng cấp
quan hệ lên đối tác chiến lược. Hy vọng chuyến thăm Việt Nam sắp tới của Thủ tướng
Úc sẽ thúc đẩy vai trò “bộ tứ ” của Úc trong quan hệ với Việt Nam và khu vực
Indo-Pacific.
Lập trường của Việt Nam
Theo David Hutt, lần này Hà Nội quyết
không chịu lùi bước, đã công khai lên án Trung Quốc và kêu gọi quốc tế ủng hộ
Việt Nam. Phát ngôn Bộ ngoại Giao nói Trung Quốc đã “xâm phạm vùng đặc quyền
kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Viêt Nam”, và đòi Trung Quốc phải “rút
ngay tàu thăm dò và tàu hộ tống khỏi vùng biển của Việt Nam”. Hà Nội cũng
thông báo đã gia hạn kế hoạch hợp tác thăm dò dầu khí với Rosneft (Nga) đến
15/9/2019, rõ ràng để thách thức Trung Quốc. Liên doanh PVN-Rosneft đã trở
thành cái gai trong mắt Bắc Kinh từ tháng 5/2019 khi thuê dàn khoan của Nhật
thăm dò dầu khí tại lô 06-01 gần bãi Tư chính. (Vietnam takes a stand in the
South China Sea, David Hutt, Asia Times, August 6, 2019).
Theo các chuyên gia phân tích, lần này có
nhiều lý do để Hà Nội đối phó với Trung Quốc (tuy trước đây đã lùi bước). Thứ
nhất, địa điểm đối đầu mới nằm trong vùng EEZ và gần hơn bờ biển Việt Nam (Vũng
Tàu). Thứ hai, thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính đã có kết quả tốt hơn trước. Thứ
ba, sau khi lùi bước lần trước (7/2017 và 3/2018) Việt Nam đã nhận ra rằng càng
lùi bước, Trung Quốc càng lấn tới. Thứ tư, Việt Nam nay được các nước lớn ủng hộ
(như Mỹ, Nhật, EU). Mỹ và EU đều muốn tăng cường hợp tác chiến lược với Việt
Nam. Ngày 5/8/2019, EU đã ký hiệp định hợp tác quốc phòng với Việt Nam, như một
chỉ dấu mới.
Tinh thần dân tộc của người Việt đối với
Trung Quốc tuy không suy giảm, nhưng gần đây lắng xuống sau khi biểu tình bạo động
bị đàn áp (5/2014). Theo Carl Thayer, đối đầu mới tại bãi Tư Chính sẽ củng cố
tinh thần dân tộc, khi Hà Nội quốc tế hóa vấn đề Biển Đông với lập trường cứng
rắn đối với Trung Quốc. Hy vọng Mỹ, EU và Nhật có lập trường quyết đoán hơn để
duy trì trật tự dựa trên luật pháp. Sự ủng hộ của Mỹ tuy gián tiếp nhưng khá mạnh,
trong khi các nước khác (như Úc, Ấn Độ, ASEAN) vẫn ngại làm mất lòng Trung Quốc.
Trung Quốc đã chọn thời điểm này để tạo
khủng hoảng tại bãi Tư Chính nhằm gây sức ép với Việt Nam (như chơi cờ vây). Thứ
nhất, họ cho rằng Việt Nam đang khó khăn về ngân sách, thu không đủ chi và trả
nợ, khi dầu khí trở thành nguồn thu chính. Thứ hai, Việt Nam có nguy cơ trở
thành nạn nhân của chiến tranh thương mại vì Mỹ đánh thuế cao lên thép Việt Nam
có nguồn gốc từ nước khác và Việt Nam có thể trở thành “nước thao túng tiền
tệ”. Thứ ba, Trung Quốc lo ngại Việt Nam xích lại gần Mỹ khi TBT/CTN Nguyễn
Phú Trọng đi thăm Mỹ (dự kiến 9/2019). Nhưng nếu Trung Quốc gây sức ép quá mạnh,
họ có thể xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ, như quy luật “hệ quả không
định trước” (unintended consequyence).
Trước diễn biến khó lường và hệ quả bất định,
lúc này Việt Nam cần khôn ngoan và tỉnh táo để nhận thấy rõ hơn tình thế phức tạp
hiện nay, khi Biển Đông khủng hoảng lần 2 và đối đầu tại bãi Tư Chính đang leo
thang. Muốn thoát hiểm trong tình thế nước sôi lửa bỏng đó, người Việt cần đặt
lợi ích quốc gia lên trên lợi ích nhóm (Việt Nam first) để tìm giải pháp khả
thi nhằm đảm bảo chủ quyền quốc gia và không gian sinh tồn cho Việt Nam. Trong
bối cảnh đó, thật là ngu ngốc và điên rồ nếu để cho Trung Quốc làm đường cao tốc
Bắc Nam.
***
Vì vậy, thứ nhất, phải thấy rõ bản chất của
Trung Quốc để không ảo tưởng và mất cảnh giác, nhằm dứt khoát tư tưởng “thoát
Trung”. Thứ hai, phải nói rõ cho người dân biết về diễn biến tình hình để họ
chung tay bảo vệ tổ quốc, vì nhân dân là yếu tố quyết định. Thứ ba, phải nói rõ
cho thế giới biết về thực trạng hiện nay và sắp tới, để vận động họ ủng hộ. Thứ
tư, phải nâng cao năng lực cảnh sát biển và hải quân để đối phó với các nguy cơ
mới. Thứ năm, phải quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và kiện Trung Quốc (ra PCA) trước
khi quá muộn. Thứ sáu, phải nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược với Mỹ, và
vận động các nước lớn như “bộ tứ ” hợp tác khai thác dầu khí tại Biển Đông. Thứ
bảy, phải vận động các nước láng giềng ASEAN hãy gác lại tranh chấp để đồng thuận
cùng đối phó với các bất ổn trong khu vực.
Tham khảo:
1.
How to Confront an Advancing Threat From China, Nikki Haley, Foreign
Affairs, July 18, 2019.
2. Vietnam’s Strange Ally in Its Fight
With China, Bennett Murray, Foreign Policy, August 1, 2019.
3. Vietnam takes a stand in the South
China Sea, David Hutt, Asia Times, August 6, 2019
4. Hải Dương 8 quay trở lại vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam, VOA, August 13, 2019
NGUYỄN QUANG DY 15/8/2019
Chú thích của Thụy My : HD-981 và HD-8 là kiểu viết tắt của
báo chí trong nước, không đúng theo tên gọi chính thức của chúng, không có lợi
khi đấu tranh với Tàu vì Trung Quốc không có giàn khoan và tàu mang « ký
hiệu » này. Thụy My xin dùng tên Hải Dương Thạch Du (Haiyang Shiyou) 981,
viết tắt HYSY-981 ; và Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi) 8.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.