Đám cưới hai nhà văn Thanh Nam-Túy Hồng tại nhà hàng Văn Cảnh Saigon. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng ở hàng ngồi ngoài cùng bên trái, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền hàng đứng ngoài cùng bên phải. |
Theo tin từ gia
đình chị Túy Nga (chị ruột của Túy Hồng) hiện ở Phan Thiết cho biết, nhà văn
Túy Hồng đã qua đời tại Mỹ vào sáng ngày 19-7-2020 (giờ Mỹ), hưởng thọ 82 tuổi.
Xin thành kính chia buồn cùng gia đình chị Túy Nga và anh Nguyễn Thành Hổ.
Nhà văn Túy Hồng
tên thật Nguyễn Thị Túy Hồng, sinh năm 1938 tại Chí Long, Phong Ðiền, tỉnh Thừa
Thiên. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, giáo sư Trường trung học Hàm Nghi, Huế.
Đoạt giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng Hòa năm 1970.
Chị là vợ của nhà
văn Thanh Nam, di cư vào Nam từ năm 1953, khi 22 tuổi đã là tổng thư ký báo
Thẩm Mỹ. Năm 1975 gia đình sang Mỹ định cư ở thành phố Seattle, tiểu bang
Washington. Năm 1985, Thanh Nam qua đời vì bệnh ung thư thanh quản, lúc 54
tuổi.
Túy Hồng là nhà
văn nữ tên tuổi cùng với các nhà văn nữ khác cùng thời: Nguyễn Thị Hoàng,
Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhã Ca, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Trùng Dương.
Tác phẩm đã xuất
bản: Thở dài (NXB Đời Mới 1965, Kim
Anh tái bản 1966), Vết thương dậy thì
(NXB Kim Anh, 1966), Trong móc mưa hạt
huyền (NXB Đồng Nai, 1969), Tôi nhìn
tôi trên vách (NXB Đồng Nai, 1970), Những
sợi sắc không (Giải Văn chương toàn quốc, NXB Khai Trí, 1971), Biển điên (NXB Văn Khoa, 1971), Bướm khuya (NXB Đồng Nai, 1971), Mùa hạ huyền (truyện dài, 1971), Nhánh tóc sợi dòn (truyện dài, 1972), Mối thù rực rỡ (truyện dài, 1972), Eo biển đa tình (truyện dài,1973), Kinh thiên thu (truyện dài, 1973), Trong cuối cùng (truyện dài), Sạn đạo (truyện dài), Tay che thời tiết (truyện dài, 1988), Mưa thầm trên bông phấn (truyện dài), Thông đưa tiếng kệ (truyện dài, 1991).
Năm 2007, Túy
Hồng có viết bài dài về Thanh Nam đăng trên Gio-O. Còn Tạ Tỵ trong “Mười khuôn mặt văn nghệ” cũng có bài
về Túy Hồng, tờ Văn Việt có đăng lại bài này. Sau đây xin giới thiệu một đoạn
trên blog của Nguyen Chính về mối quan hệ văn chương giữa hai nhà văn Túy Hồng
và Võ Phiến:
---
“Giữa Nhã Ca và
Túy Hồng có nhiều điểm chung. Thứ nhất, cả hai đều sinh trưởng tại Huế và thành
công trong văn nghiệp tại Sài Gòn. Thứ nhì, cả hai đều có chồng trong giới văn
nghệ: Nhã Ca kết hôn với Trần Dạ Từ, có 5 người con, trong khi Túy Hồng lập gia
đình với Thanh Nam (mất tại Seattle năm 1985) với 4 người con.
Chất Huế có phần
đậm nét trong văn của Nhã Ca, từ ngôn từ cho đến cảnh trí, nhưng lại chỉ bàng
bạc trong những trang viết của Túy Hồng, thay vào đó là những trang viết “bạo”
về sex, cụ thể hơn là những đoạn có liên quan đến nhục dục. Theo nhà văn Trần
Phong Giao nhận xét: “… gái Huế chỉ nên là người tình chứ đừng nên bê về làm
vợ” (sic). Kết cuộc là nhà văn Túy Hồng và Nhã Ca đã phản đối tác giả Trần
Phong Giao kịch liệt.
Túy Hồng dạy học
tại Trường Trung học Hàm Nghi, phía sau cửa Thượng Tứ. Đây là một ngôi trường
khiêm tốn, không nổi tiếng như Quốc Học và Đồng Khánh. Từ trường Hàm Nghi, Túy
Hồng xin thuyên chuyển về trường Gia Hội, nằm sau đầm sen trước tư dinh ông
Hoàng Mười. Ký ức về Huế được dàn trải trên những trang viết:
“Những đêm rằm,
tôi chèo thuyền về xóm Đập Đá đất khô cứng, ngó xuống thôn Vĩ Dạ xanh um hàng
cau lả mình trong gió đa tình, trong ánh trăng Hàn Mặc Tử, lòng thấy nhớ những
cuốn sách dày, những tập thơ mỏng, những tên tuổi người viết lách…
Những ngày thứ
bảy, tôi phóng xe đạp lên đồi Vọng Cảnh, hướng về điện Hòn Chén, thả tầm mắt
ngắm núi Ngự Bình trọc đầu, nhìn xa xa về cửa Thuận An, rồi đăm chiêu ngắm
Thành Nội êm đềm tĩnh lặng…".
Giữa khung cảnh
trầm lắng của khung trời Huế đa tình đó, Túy Hồng nảy sinh tham vọng viết văn
qua nhiều đêm thức trắng, vật lộn với truyện ngắn đầu tay và gửi đăng báo “Văn
Hữu” ở Sài Gòn. Một tuần lễ trôi qua, tòa soạn “Văn Hữu” phúc đáp, trong thư
trả lời có 1.000 đồng tiền nhuận bút và những dòng chữ hồi âm của nhà văn Võ
Phiến:
“Sao tôi khờ dại và ngu như bò! Sao tôi thật thà chất
phác như trâu. Suốt thời gian làm việc ở sở thông tin Huế, tôi dốt nát và u mê
như heo! Tôi không dám tìm gặp cô một lần, và không đủ can đảm làm quen với cô
hồi đó! Xứ Huế đang yêu ai và có bao giờ sông Hương ngủ đò. Chào cô!”.
Đó là bước khởi
đầu trong văn nghiệp của Túy Hồng với 1.000 đồng nhuận bút và cũng là “mối duyên
văn nghệ” của một cô giáo xứ Huế với nhà văn nổi tiếng ở Sài Gòn. Túy Hồng và
Võ Phiến thư từ qua lại đều đặn mỗi ngày. Nhưng vào một buổi sáng khi “nắng Huế
hung hăng bốc nóng” Túy Hồng nhận được bức thư từ ông cai trường. Trong thư Võ
Phiến… thú tội: “Anh xin thú thật với em một tội lỗi, vì một ngày kia em sẽ
hỏi. Xin em tha thứ cho anh: anh đã lập gia đình từ lâu, và vợ chồng anh có bốn
đứa con”.
Trong bài viết
mang tựa đề “Võ Phiến”, Túy Hồng viết: “Đó là cái nghiệp của ít nhiều nhà văn
và nhà thơ nữ miền Hương Ngự, những kẻ tháo gỡ vòng dây trói Khổng Mạnh Huế để
vào Nam hòa nhập với tự do Sài Gòn. Những người viết nữ thường sa vào tay những
kẻ đã có vợ và nhiều con.
Nếu tôi là một
ông thầy tướng số mù, (thầy bói thì phải mù, chứ thầy bói mà hai mắt mở thao
láo thì nói ai nghe), tôi sẽ tiên đoán vận mệnh của các nhà văn nữ: văn chương
thì rạng rỡ, nhưng tình duyên thì trắc trở. Những nhà văn nữ thường thích sinh
sống ở Sài Gòn hơn ở Huế, Vĩnh Long, Phan Rang. Sài Gòn thông cảm tâm sự của họ
hơn Huế, và những nơi khác. Sài Gòn có đủ đàn ông để họ lãng mạn và làm bạn”.
Túy Hồng thú nhận
một cách thành thật: “Tôi tham vọng viết truyện dài, nhưng không có thực tài,
khả năng chỉ đủ để sáng tác truyện ngắn. Trong một truyện vừa, không ngắn không
dài, tôi miêu tả hình ảnh một tên đàn ông đểu giả gian dối, một kẻ ngọai tình
với tôi và phụ tình với vợ. Nhiều đêm dài mất ngủ, cùng với hoa quỳnh ngày tàn
đêm nở, tôi trút giận hờn vào những câu văn ác ôn. Tình yêu là một giọt máu
mang số 35”.
Võ Phiến khuyên:
“Em hãy liên lạc với tòa báo, nói với ông chủ bút gửi trả lại cái truyện ngắn
đó… không đăng báo. Em mà để cái truyện ngắn đó đăng lên báo… thì em lỗ, anh
thì chẳng mất mát gì…Em hãy thay đổi
bút pháp, thay đổi giọng văn, đừng trút giận hờn vào bài viết. Đừng đùa với dư
luận, đừng khai sự thật với độc giả… Phải dấu kín, phải niêm phong bí mật lại.
Dư luận độc địa lắm. Chúng ta không lấy được nhau thì chúng ta sẽ làm sui gia
với nhau. Con anh sẽ lấy con em”.
Túy Hồng từ Huế
vào Đà Lạt chấm thi, tạm trú tại cư xá Bùi Thị Xuân và Võ Phiến từ Sài Gòn lên
thành phố sương mù vài giờ trước đó. Đà Lạt ẩn hiện dưới ngòi bút của nhà văn
nữ mới chập chững vào đời:
“Chúng tôi đi đêm
dưới trăng mờ Dalat. Vườn nhà ai, những búp hoa quỳnh màu bạch ngọc đã uốn cong
cánh từ chiều muộn để sẽ nở bung cánh ra khi màn đêm dần xuống. Mỗi bước đi của
chúng tôi là mỗi nhịp đời nhẹ êm, mỗi hé nở âm thầm của quỳnh hoa, mỗi hơi thở
dài sâu của câm lặng tình cảm. Bóng tối chụp lên cảnh vật, nhưng ánh trăng cũng
sáng soi chiếu xuống vòm cây cành lá.
Đêm nhẹ êm, thế
giới về khuya tĩnh lặng, hương quỳnh-tương thơm dịu trời mây. Trong thời gian
và không gian này, quỳnh hoa sẽ bung nở với trăng, với khoảng không bao la và
với bóng tối lan tràn để khi đêm hết, quỳnh hoa sẽ tàn vì mặt trời chói sáng,
quỳnh hoa sẽ chết đúng vào ngày mai với ánh thái dương nóng cay. Cuộc đời của
hoa quỳnh chỉ trường thọ được một đêm thôi”.
Phải chăng hoa
quỳnh ẩn dụ một mối tình sớm nở tối tàn? Cũng tại Đà Lạt, Võ Phiến tâm sự với
Túy Hồng:
“Anh không ham
muốn em từ phút ban đầu, cũng không ham muốn em sau cái phút anh nhìn em qua
cửa kính cư xá Bùi Thị Xuân, mà anh chỉ yêu em bởi vì những câu văn đầu tay em
viết trong truyện ngắn gửi đăng báo… Yêu đời sống, chúng ta hãy đầu cơ khả
năng, thì giờ và lòng thành vào văn chương. Anh cho nghệ thuật tất cả tài sản
tinh thần của anh. Con đường anh đi là con đường văn nghệ, chấp nhận sống và
chết, trừu tượng và cụ thể. Anh không phải là họa sĩ, nhưng anh có màu sắc nét
vẽ; anh không phải là nhạc sĩ nhưng anh có âm thanh tiếng động.”
Tình yêu của họ
cũng tựa như hoa quỳnh. Theo lời của Túy Hồng, nó kết thúc ngay tại Đà Lạt
trong một tình huống khiến người đọc ngỡ ngàng:
“Khi chúng tôi
ngang qua quân trường võ bị, bỗng có một người đàn bà đi ngược chiều, tay dắt
một đứa con gái mặc áo đầm. Võ Phiến mặt mày tái xanh, sợ hãi, vụng về hoảng
hốt quýnh lên: “Vợ anh, em tìm xe về đi”.
Võ Phiến có một
nhận xét rất “trắng trợn” về Túy Hồng: “Em không bằng Nguyễn Thị Hoàng, em thua
kém Nguyễn Thị Thụy Vũ. Họ kính nể người yêu, họ không oán trách người tình,
không căm giận những người đàn ông mà họ đã thương. Còn em, em không tốt, em
nói xấu anh dữ dội trong truyện ngắn em viết…”.
Túy Hồng cũng
nhận xét về chính mình một cách thẳng thắn: “Em là gái trời cho không đẹp, và
trời không cho một đàn ông. Một cô gái đã già, một nữ giáo chức cô đơn dạy học
ở một tỉnh lỵ chậm tiến… nhưng tôi không Huế một chút nào cả, tôi nhanh chóng
hội nhập đời sống Sài Gòn. Hồi đó, tôi nói tiếng Bắc, phát âm rõ từng chữ và
đúng giọng, nhưng không bắt chước được giọng Nam”.
Chuyện Túy Hồng
-Võ Phiến vẫn chưa chấm dứt ở Sài Gòn. Túy Hồng gửi bản thảo “Những sợi sắc
không” để dự thi Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc năm 1970 cùng với Nhã Ca,
Nguyễn Thị Thụy Vũ… và hội đồng giám khảo gồm Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo và có
cả… Võ Phiến!
Trong vai trò
giám khảo, Võ Phiến loại bỏ “Những sợi sắc không” với lý do “tác giả chỉ đánh
máy bản thảo chứ không gửi sách”. Trong phiên họp cuối cùng, hội đồng giám khảo
cho biết sẽ không có tác phẩm trúng giải nhất, mà chỉ có hai tác phẩm đoạt giải
nhì đồng hạng vì không hội đủ sự đồng tình của cả ba giám khảo.
Nhà văn Thanh
Nam, khi đó đã gắn bó với Túy Hồng, nhận xét: “Có những kẻ nhớ lâu và giận lâu…
Anh, một người con gái anh đã quen và đã yêu thì không bao giờ anh ghét. Anh
công bằng nói rằng Võ Phiến thù em.”
Vợ chồng nhà văn Võ Phiến |
Túy Hồng chỉ nghĩ
một cách thật đơn giản: “Văn không phải là người. Những gì tôi viết ra đều là
đùa nghịch giỡn chơi thôi. Tôi chỉ biết một điều về Võ Phiến là ông ta rất
thương yêu vợ…”
Ở một bài khác,
Túy Hồng viết: “Tôi chưa thấy một người đàn ông nào thương vợ nhiều như thế,
yêu vợ kỹ như thế. Vợ anh, vợ anh… cái miệng cứ tía lia vợ anh vợ anh, làm như
người ta sắp giựt mất. Bà Võ Phiến tên cúng cơm là Viễn Phố”.
Mối tình Thanh
Nam-Túy Hồng cũng có nhiều điều đáng chú ý. Gặp nhau năm 1966, và chỉ một tháng
sau họ lấy nhau, khi đó, theo lời Túy Hồng, “Thanh Nam đã là một lực sĩ đuối
sức trên hai vòng đua tình và tiền”.
“Khi một phụ nữ
gặp gã đàn ông chưa quá vài lần mà đã ngủ với hắn ngay và lấy hắn làm chồng
liền, đó là hoả hoạn của tình dục, của hoang dâm bấy lâu đè nén đã thừa cơ bật
dậy. Những cuộc hôn nhân vội vã như thế này thường xuyên có thể đưa đến đổ vỡ,
nhưng Thanh Nam và tôi lì lợm chung sống với nhau hoài bên bầy con bốn đứa. Hôn
nhân của chúng tôi đứt đôi chỉ vì có một cái chết”.
Túy Hồng tiết lộ
qua bài tản mạn mang tựa đề “Thanh Nam”: “Chín năm chung sống với nhau ở
Saigon, Thanh Nam không phải là người chồng tốt. Chúng tôi lấy nhau có đám cưới
nhưng không có hôn thú. Khi con gái đầu lòng học hết lớp mẫu giáo, chàng mới
chịu đóng tiền đút lót một ông lý trưởng ở Quảng Nam để ông ta cấp cho một tờ
hôn thú lậu và làm giấy thế vì khai sinh cho con”.
Dưới con mắt Túy
Hồng, Thanh Nam, chỉ là “một văn sĩ nhỏ nhưng chơi toàn với những tay lớn”, nên
đã nhờ một ông thiếu tá giới thiệu với một bác sĩ quân y để xin một giấy chứng
nhận bị bệnh thần kinh để nghỉ phép ăn lương. Túy Hồng làm ở đài phát thanh bốn
năm mà vẫn lãnh thêm lương giáo chức.
Sau đó Thanh Nam
nhờ nhà báo Lê Phương Chi giới thiệu Túy Hồng với ông giám đốc Khai Trí để bán
tất cả những tác phẩm đã viết, đang viết, và sẽ viết với một số tiền trả trước.
Thanh Nam nói: “Em cứ làm theo lời anh. Trời phạt anh chịu.”
Không biết nói
chơi như vậy có đúng hay không nhưng những ngày tháng cuối cùng của Thanh Nam
bên Túy Hồng tại Seattle là cả một chuỗi bi kịch kể từ khi bác sĩ tuyên bố
Thanh Nam bị chứng ung thư cổ họng. Để chữa trị, ống nhựa, ống hút đặt trong
mũi, trong miệng khiến Thanh Nam không nói được. Hai người chỉ dùng giấy bút để
nói chuyện…
Nhà văn Thanh Nam |
Như đã nói, hai
nhà văn Nhã Ca và Túy Hồng có nhiều điểm chung nhưng giữa họ cũng có một điểm
khác biệt lớn: truyện của Nhã Ca dựa vào bối cảnh chiến tranh, trong khi Túy
Hồng lại dựa vào tính dục của con người.
Các nhà phê bình
thường cho rằng nhiều nhà văn nữ có lối viết mới hơn, kêu hơn, vào sâu hơn
trong vấn đề tình dục, nhưng vấp phải cái hỏng ở phần xây dựng nhân vật. Họ
không vẽ được cái mặt và cái chân tướng của người đàn ông, nghĩa là không thể
hiểu một cách cặn kẽ tâm lý đàn ông.
Nhân vật của Túy
Hồng thường là cô giáo trong khi Nguyễn Thị Thụy Vũ lại khai thác đối tượng là
các cô gái bán bar. Lê Châu nhận xét: “Đọc văn đàn bà ngày nay, ta nhận thấy
đàn ông trong các tác phẩm hình như phải nhận một hình phạt nho nhỏ nào đó.
Phải chăng trên cõi đời này đàn bà đã yêu đàn ông nhiều hơn họ được yêu lại?
Phải chăng khi đọc họ, ta nghe được tiếng kêu buồn của tình yêu không được thoả
mãn?”.
Nhà phê bình
Nguyễn Văn Lục trong bài “Phụ nữ và vấn đề tình dục” trên Hợp Lưu năm 2005,
viết: “Trước đây, thập niên 60-70, đã có Túy Hồng viết rất bạo dạn, dữ dội. Gái
Huế đa tình… nay đã có nhà văn như Túy Hồng buông thả, phóng khoáng, mở
toang…”.
Nhà văn nữ người
Pháp, Francoise Sagan, là một hiện tượng trong văn học VNCH với các tác phẩm
như Bonjour Tristesse (Buồn ơi chào
mi, Nguyễn Vỹ dịch năm 1959), Un certain
sourire (Có một nụ cười, Nguyễn Minh Hoàng dịch) và Dans un mois, dans un an (Một tháng nữa, một năm nữa, Bửu Ý dịch
năm 1973). Sagan đưa ra một lối viết thật ngắn, lối sống, lối nghĩ thẳng băng
đến thản nhiên, đến vô tình. Và đặc biệt hơn cả, quan hệ tình dục ngang trái,
khác đời của một nữ sinh còn trên ghế nhà trường trực tiếp tác động trên đời
sống thanh thiếu niên thành thị miền Nam.
Các nhà văn nữ
vào thập niên 60 như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ có
những nét gì trùng hợp với Sagan? Chúng ta không dám khẳng định họ “bắt chước”
Sagan nhưng khi đọc các tác phẩm của họ, người đọc cảm thấy hình như phảng phất
đâu đó không khí của Sagan.
Túy Hồng trong
bài phỏng vấn của Hoài Nam, “Phụ nữ và
Văn chương”, trình bày quan điểm của mình về lớp nhà văn nữ sau này ở hải
ngoại như Lê Thị Thấm Vân, Trịnh Thanh Thủy, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị
Ngọc Nhung… và ở trong nước như Vi Thùy Linh, Đỗ Hoàng Diệu…:
“Viết là tưởng
tượng - fiction - căn cứ trên thực tại - fact. Tôi yêu fiction dựa trên fact.
Nghệ thuật có giá trị khi nó là sự thật, không phải của giả. Tình dục không cho
ta một nắm to của cái cảm xúc gọi là “sướng”, và không gây cho ta một chỗ đau
nào đó trên thân thể. Sự thật, giây phút tuỵệt đỉnh lúc ân ái chỉ diễn ra chừng
năm bảy tích tắc kim đồng hồ, và cái lượng đam mê cũng nhỏ thôi chứ đâu có bự
như những nhà văn nữ lớp mới đã tả. Sự thật thì ít nhưng chúng ta đã xít ra cho
nhiều. Sự thật thì bé nhưng chúng ta đã xé ra cho to”.
NGUYỄN CHÍNH
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.