Ngày 13/07/2020, ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo loan báo một thay đổi
quan trọng trong chính sách của Hoa Kỳ về Biển Đông. Hôm sau, trợ lý
ngoại trưởng David Stilwell trong cuộc hội thảo thường niên về Biển Đông
của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) đã làm rõ thêm vấn
đề.
RFI Việt ngữ lược dịch bài viết của chuyên gia Gregory
B.Poling, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở ở Washington
D.C.
Thông
cáo báo chí của ông Pompeo nêu cụ thể các yêu sách trên biển của Trung
Quốc mà Hoa Kỳ coi là bất hợp pháp. Tuyên bố này nói rất rõ quan điểm
của Mỹ, nhưng không hẳn là trái ngược với chính sách trong quá khứ.
Bản
tuyên cáo lập trường này giải thích những hành động của các chính quyền
trước, và mở ra con đường cho các thông điệp ngoại giao hiệu quả hơn,
đáp trả mạnh mẽ hơn những hành động quấy nhiễu láng giềng của Trung
Quốc. Các đối tác và đồng minh của Mỹ trong khu vực dường như đã được
báo trước, chẳng hạn bộ trưởng Quốc Phòng Philippines sẵn sàng có tuyên
bố tích cực trong vài giờ. Và chính sách mới đã tạo ra những phấn khích,
thường là cường điệu trên báo chí và mạng xã hội.
1. Quan điểm mới của Hoa Kỳ như thế nào ?
Tuyên
bố của ngoại trưởng Pompeo không thay đổi tính khách quan của Mỹ về
tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Washington vẫn không có lợi ích gì khi
dính vào tình hình lịch sử phức tạp, nước nào có chủ quyền trên đảo nào ở
Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên từ nay Mỹ có quan điểm rạch ròi về các
tranh chấp chủ quyền vùng biển và đáy biển.
Câu mở đầu viết : « Chúng
tôi xin nói rõ : các yêu sách của Bắc Kinh về nguồn lợi ngoài khơi trên
hầu hết Biển Đông là hoàn toàn bất hợp pháp, cũng như chiến dịch quấy
nhiễu nhằm kiểm soát biển ». Phần còn lại của tuyên bố giải thích ý nghĩa cụ thể.
Hoa
Kỳ ủng hộ mạnh mẽ hơn nội dung phán quyết năm 2016 của tòa án trọng tài
được triệu tập trên tinh thần Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS). Tòa án này đã trao phần thắng cho Manila trong vụ kiện Bắc
Kinh. Tòa nhận định rằng Trung Quốc không có bất kỳ căn cứ nào để đòi
« quyền lịch sử », hay những yêu sách khác ngoài những gì UNCLOS cho
phép.
Phán quyết này vô hiệu hóa cái gọi là « đường 9 đoạn » hay
« đường lưỡi bò » để yêu sách chủ quyền biển. Tòa án cũng quyết định
không một đảo nào ở Trường Sa hay bãi cạn Scarborough có được vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) bao quanh, hay thềm lục địa. Đó là những « Đá »
không thể có người ở hay có đời sống kinh tế độc lập, và như vậy, chỉ có
thể sở hữu lãnh hải 12 hải lý.
Quan
điểm mới của Hoa Kỳ dựa theo kết luận logic của quyết định trên. Trung
Quốc có thể đòi hỏi nguồn lợi của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
từ duyên hải phía nam của mình, và có thể tại những vùng xung quanh
quần đảo Hoàng Sa, mà phán quyết năm 2016 không đề cập đến. Trung Quốc
cũng có thể đòi chủ quyền 12 hải lý xung quanh những « Đá » ở quần đảo
Trường Sa và bãi cạn Scarborough (và các nước yêu sách khác cũng có thể
đòi hỏi).
Tuy nhiên Bắc Kinh không thể đòi bất kỳ khu vực nào
khác. Như vậy, đa số nguồn lợi Biển Đông thuộc về các quốc gia duyên hải
(theo mẫu tự ABC : Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam).
Hoa Kỳ nay tuyên bố rõ là việc Trung Quốc đánh cá, khai thác dầu khí và
các hoạt động kinh tế khác trên các vùng này là bất hợp pháp, hoặc xâm
hại đến quyền của các nước láng giềng.
Phán quyết trọng tài năm
2016 cũng kết luận nhiều thực thể mà Trung Quốc đòi chủ quyền, nhất là
Đá Vành Khăn (Mischief Reef), Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và Bãi Cỏ
Rong (Reed Bank) nằm chìm dưới nước, như vậy không thể có bất kỳ yêu
sách nào. Tòa cho rằng các thực thể này nằm trên thềm lục địa
Philippines, quốc gia duyên hải gần nhất, nên Manila có đặc quyền.
Chính
sách mới của Mỹ xác nhận điều này và áp dụng cho các thực thể chìm dưới
nước khác mà Trung Quốc yêu sách : bãi cạn Luconia (Luconia Shoals) và
bãi ngầm James (James Shoals) ngoài khơi Malaysia, Bãi Tư Chính
(Vanguard Bank) ngoài khơi Việt Nam. Có nghĩa là Hoa Kỳ coi toàn bộ căn
cứ quân sự Trung Quốc trên Đá Vành Khăn là bất hợp pháp, và các cố gắng
của Bắc Kinh để xác quyết chủ quyền tại các địa điểm khác là vô căn cứ.
Cuối
cùng, tuyên bố của ông Pompeo cho rằng việc Trung Quốc xâm phạm quyền
đánh cá của Philippines tại bãi cạn Scarborough là bất hợp pháp. Cho dù
thực thể này tạo ra quyền lãnh hải 12 hải lý xung quanh, phán quyết 2016
cho phép cả Trung Quốc lẫnh Philippines đều có quyền đánh cá truyền
thống. Như vậy một lần nữa Hoa Kỳ không thay đổi quan điểm về chủ quyền
lãnh thổ, nhưng nói rõ hơn về quyền trên biển.
2. Quan điểm này có những khác biệt gì ?
Chính
quyền Obama kiên quyết ủng hộ quyền của Philippines đưa Trung Quốc ra
tòa trọng tài, và sau đó tuyên bố phán quyết của tòa mang tính ràng buộc
theo UNCLOS, và kêu gọi cả hai bên chấp hành, tuy nhiên lại sử dụng từ
ngữ thận trọng. Vài giờ sau khi phán quyết được công bố, bộ Ngoại giao
Mỹ tuyên bố đó là quyết định « cuối cùng và mang tính ràng buộc theo luật pháp cho cả Trung Quốc và Philippines », nhưng lại nói thêm « Chúng tôi vẫn đang nghiên cứu và không có bình luận nào về cơ sở của phán quyết ».
Tại
hội nghị thượng đỉnh Đông Á ở Vientiane vào cuối tháng và sau khi ghé
Manila, ngoại trưởng John Kerry nhắc lại rằng phán quyết mang tính ràng
buộc pháp lý và kêu gọi tôn trọng. Ông Kerry nhiều lần lên tiếng ủng hộ
luật pháp quốc tế và tự do hàng hải nói chung. Tuy nhiên ông cũng như
bất kỳ viên chức Mỹ nào khác - kể cả trong chính quyền trước đó hoặc
trong ba năm đầu của chính phủ đương nhiệm - khẳng định cơ sở của phán
quyết. Đây là một chọn lựa tế nhị nhưng cố ý.
Khi tham gia UNCLOS,
các quốc gia chấp nhận sự liên quan về luật pháp với kết quả của bất kỳ
phán quyết trọng tài nào mà họ tham gia. Tuy nhiên điều này không tự
động mang lại sức nặng thông lệ quốc tế cho quyết định trọng tài, và
không có nghĩa là các nhà nước khác phải đồng ý rằng các thẩm phán đã
đúng hoặc tuân theo các quyết định trước. Tất cả các phiên trọng tài đều
như thế, dù là giữa các Nhà nước, công ty hoặc cá nhân. Thế nên các
viên chức Mỹ kêu gọi Trung Quốc tuân theo phán quyết, nhưng tránh gọi
các hành động vi phạm của Trung Quốc là « bất hợp pháp ».
Washington
dành từ ngữ này cho những yêu sách thấp hơn của Trung Quốc, có ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền tự do hàng hải của Mỹ theo thông lệ quốc tế.
Đó là đường lưỡi bò của Trung Quốc xung quanh quần đảo Hoàng Sa, đòi hỏi
của Bắc Kinh khi đi qua vô hại ở khu vực lãnh hải phải thông báo trước,
và các mưu toan áp đặt quy định về hàng hải, hàng không xung quanh Đá
Vành Khăn. Tuy Hoa Kỳ thường chỉ trích việc Trung Quốc đánh cá, thăm dò
dầu khí và sách nhiễu láng giềng tại vùng đặc quyền kinh tế của các nước
này, gọi đó là những hành vi « gây bất ổn », « hung hăng », nhưng tránh nói là « bất hợp pháp ».
Điều
này khiến ở Đông Nam Á người ta cho rằng Hoa Kỳ chỉ ưu tiên cho
quyền « tự do hàng hải » của mình - mà nhiều người coi là chỉ liên quan
đến các hoạt động quân sự Mỹ - chứ không phải « tự do trên biển », gồm
cả các quyền kinh tế được luật pháp quốc tế bảo đảm. Các chính quyền Mỹ
trước đây có coi những hành động của Trung Quốc trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của các nước láng giềng là bất hợp pháp hay
không ? Hầu như là chắc chắn. Tuy nhiên Washington cho đến nay không
muốn nói ra.
3. Quan điểm mới của Mỹ có thể có những tác động nào ?
Luận
điểm mới này tự nó không gây tác động, nhưng việc khởi đầu cho nỗ lực
lâu dài nhằm buộc Trung Quốc phải trả giá, và ủng hộ các đối tác của Mỹ,
có thể đầy ý nghĩa. Tác động tức khắc của sự thay đổi quan điểm này là
trên mặt trận ngoại giao.
Tập hợp sự ủng hộ của quốc tế đối với các hành vi « bất hợp pháp »
dễ hơn rất nhiều so với các hành động chỉ đơn thuần gây khó chịu hoặc
tạo bất ổn. Tác hại cũng nhiều hơn đối với một quốc gia đang mong muốn
trở thành lãnh đạo toàn cầu nhưng lại bị tố cáo là vi phạm trắng trợn
luật pháp quốc tế.
Các viên chức Mỹ chừng như bắt đầu sử dụng ngôn
ngữ mạnh mẽ hơn trong các thông cáo và các diễn đàn quốc tế, đồng thời
gây áp lực lên các đối tác và đồng minh để hành xử tương tự. Điều này
được chờ đợi không chỉ tại các hội nghị khu vực như thượng đỉnh Đông Á,
nhưng cả ở các tổ chức như « Bộ Tứ » (Quad), nhóm G7, và nhiều cuộc họp
song phương, tam phương khác nhau.
Điều này có thể khuyến khích
các nước đòi hỏi chủ quyền ở Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam và
Philippines có thể tự vệ một cách mạnh mẽ hơn. Lần tới, nếu một tàu hải
cảnh Trung Quốc giở trò với một giàn khoan ngoài khơi Việt Nam, hay một
đoàn tàu đánh cá Trung Quốc xuất hiện tại vùng biển Indonesia, Hoa Kỳ có
thể lên tiếng kiên quyết hơn để tố cáo những hành động bất hợp pháp
trên, khiến Trung Quốc mang tai tiếng nhiều hơn trên trường quốc tế.
Cách tiếp cận này có thể càng mở rộng hơn sau tháng 11, và chính quyền
mới của Mỹ khó thể quay ngược lại.
Với chính sách mới, Trung Quốc
có thể phải trả giá nhiều hơn về kinh tế. Khi tố cáo quá nhiều hành động
bất hợp pháp của Trung Quốc trên biển, chính phủ Mỹ có thể minh chứng
cho việc trừng phạt các công ty và định chế Trung Quốc tiến hành những
hoạt động đó. Điều này dẫn đến một loạt những mục tiêu tiềm năng rộng
lớn và kịp thời hơn so với các đạo luật trừng phạt của Hoa Kỳ trước đây.
Các dự luật trình bày tại Quốc Hội năm 2017 và 2019 chẳng hạn, sẽ tập
trung nhiều hơn vào việc đào đắp, xây dựng và các hành động khác của
Trung Quốc tại các đảo nhân tạo.
Trong
phần trình bày tại CSIS, ông Stilwell đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
của các công ty quốc doanh Trung Quốc trong các hoạt động bất hợp pháp
trên biển. Ông tuyên bố : « Chúng ta cần phải đưa ra ánh sáng về
cung cách hoạt động của các công ty này trên thế giới, kể cả tại Đông
Nam Á và Hoa Kỳ. Tại tất cả xã hội chúng ta, công dân có quyền biết được
những khác biệt giữa các công ty thương mại và các công cụ của một
cường quốc bên ngoài ». Và khi được hỏi, nếu chính sách mới của Mỹ
có thể dẫn đến việc trừng phạt các định chế Trung Quốc hay không, trợ lý
ngoại trưởng Mỹ nói rằng khả năng này « đang được đặt trên bàn ».
Quốc hội có sự ủng hộ rất lớn đối với chính sách mới. Trong những giờ đầu
sau khi công bố, chủ tịch và các thành viên uy tín của Ủy ban Đối ngoại
Thượng Viện và Hạ Viện đưa ra tuyên bố lưỡng đảng, ủng hộ chủ trương của
chính phủ.
Tất nhiên là chính sách này cũng có những bất tiện,
trước mắt là làm tăng thêm căng thẳng giữa Bắc Kinh với Washington. Lần
tới, khi Trung Quốc lại đi quấy nhiễu bất hợp pháp các láng giềng trong
vùng đặc quyền của các nước này, sự đáp trả mạnh mẽ hơn của Hoa Kỳ có
thể làm tình cảm dân tộc chủ nghĩa tăng gấp đôi. Đặc biệt là trong bối
cảnh đại dịch, khiến các nhà ngoại giao Trung Quốc tỏ ra ngạo mạn thay
vì giảm thang xung đột với các láng giềng.
Tuy nhiên về lâu về
dài, nếu thành công trong một chính sách rộng lớn hơn cùng với việc gây
áp lực lên Bắc Kinh và một liên minh quốc tế rộng hơn để hỗ trợ cho các
đối tác Đông Nam Á, chính sách mới của Hoa Kỳ có thể khiến Trung Quốc
phải hướng về một sự thỏa hiệp mà cộng đồng quốc tế có thể chấp nhận. Và
rốt cuộc, đó là cơ hội tốt nhất để xử lý tranh chấp Biển Đông một cách
hòa bình.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.