Triển lãm 40 năm cải cách và mở cửa tại Bảo tàng quốc gia Trung Quốc, 14/11/2018. |
.
Dự báo của Trần Đình Hiến
Gần đây
tôi được gặp Cụ Trần Đình Hiến (1933), một trong những dịch giả tiếng Trung
giàu kinh nghiệm nhất hiện nay, một người đã sống liên tục ở Trung Quốc mấy
chục năm với nhiệm vụ làm phiên dịch chính trị cho các lãnh đạo cao cấp Việt
nam mỗi khi sang TQ. Cụ có hiểu biết sâu sắc về con người, văn hóa và đất nước
TQ. Trong lúc uống trà chúng tôi nhờ Cụ dự đoán xem TQ sẽ đi về đâu trong bối
cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung hiện nay.
Cụ xoay xoay chén trà nóng trong
tay, ngắm nhìn làn hơi nước đang nhẹ nhàng bốc lên, nâng chén trà lên ngang
miệng thoáng ngửi, định uống rồi lại đặt xuống, rồi cụ chậm rãi nói từng từ một
cách dứt khoát rằng: “Nhất
đinh nền kinh tế Trung Quốc sẽ sụp đổ”. Cụ không giải thích thêm vì sao. Cụ chỉ
khẳng định vậy.
2.
Mô hình Trung Hoa
Ý kiến
của Cụ Trần Đình Hiến liên quan đến một câu hỏi lớn hơn “Tại sao đế chế Trung
Hoa có thể tồn tại mấy ngàn năm, từ thời Tần Thủy Hoàng đến nay, nhiều triều
đại đã hình thành và sụp đổ, nhưng đất nước ấy ngày càng to thêm, bành trướng
ngày càng rộng ra, đôi khi có tỏa sáng văn hóa như là một trung tâm văn minh
mang tính khu vực?”.
Thực
vậy, trên thế giới có nhiều đế chế. Thời cổ thì có Hy Lạp, La Mã, Ai Cập,
Babylon, …Thời hiện đại thì có Tây ban Nha, Bồ Đào Nha, Ottoman, thực dân Anh
Pháp … Các đế chế ấy đều đã sụp đổ hoặc cải biến hết. Riêng nước TQ đã tồn tại
và phát triển với tư cách một đế quốc kéo dài từ cổ đại hơn 22 thế kỷ đến ngày
hôm nay.
Các nhà
nghiên cứu chỉ ra rằng sở dĩ đế chế TQ tồn tại lâu dài vì nó được xây dựng trên
mô hình Hoàng đế. Hoàng đế có “thiên mệnh” quản trị thiên hạ. Thiên mệnh là một
thuật ngữ được sáng tạo bởi người TQ. Sự sáng tạo ra thuật ngữ ấy để biện minh
cho tính chính danh của các triều đại. Thiên mệnh cũng biện minh cho khái niệm
thinh suy trị loạn đắp đổi. Khái niệm thịnh suy trị loạn đắp đổi giải thích cho
sự sụp đổ của một triều đại thối nát, được thay thế bởi một triều đại mới, với
một Hoàng đế mới có thiên mệnh thay thế Hoàng đế cũ. Sự giải thích ấy mơ hồ và
mê tín, thực ra thịnh suy là do mâu thuẫn giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị đã lên
đến đỉnh điểm.
Thay
thế khái niệm “thiên mệnh” bởi khái niệm “mâu thuẫn” thì ta thấy đế chế TQ đã
kéo dài hai mấy thế kỷ những gồm những giai đoạn thịnh suy khác nhau. Thịnh suy
trị loạn là do mâu thuẫn ở bên trong cái thực thể TQ đó. Sau khi hết loạn thì
Hoàng đế mới lại dùng lại cơ chế quản trị và văn hóa của xã hội cũ để duy trì
sự truyền ngôi trong dòng tộc mình.
Như
vậy, cơ chế quản trị xã hội và văn hóa TQ có một sự bền vững nhất định nào đó.
Cơ chế quản trị xã hội và văn hóa TQ đã được gợi ý bởi Khổng tử. Ông cho rằng
Vua là bậc chí tôn, nghĩa vụ của dân là tuân thủ mọi mệnh lệnh của Vua, dù cho
mệnh lệnh ấy đi ngược lại quyền sống của dân (Quân xử thần tử, thần bất tử
bất trung). Theo lý thuyết Nho Giáo thì tự do của bậc Vua chúa là không
giới hạn. Vạn vật trong trời đất đều thuộc về quyền định đoạt của Vua. Còn tự
do của dân là tự do hạn chế. Người dân, đặc biệt các bậc hiền tài có quyền tự
do tích lũy tri thức và năng lực của mình để thi thố với Vua. Nhờ quyền tự do
hạn chế ấy một người bất kỳ có thể leo đến vị trí cao nào đó trong cơ cấu quản
trị xã hội, vị trí ấy được định danh là “dưới một người trên vạn người”.
Đó là vị trí của các quan. Dòng dõi của quan (ADN của người ấy) không có tính
chất “thiên mệnh”.
Tóm lại
xã hội TQ là một xã hội “tự do sơ khai”, trong đó quyền tự do của Vua là vô
hạn, quyền tự do của dân là hữu hạn. Sự hài hòa giữa tự do hữu hạn và tự do vô
hạn là cơ sở của một giai đoạn thịnh trị. Sự hài hòa ấy thường xuất hiện khi có
một vị Vua hiểu biết, thường gọi là Minh Quân, biết tự hạn chế cái vô hạn của
mình. Ngược lại, khi cường độ của mâu thuẫn giữa tự do vô hạn và tự do hữu hạn
đạt đến một mức nào đó thì xã hội bắt đầu loạn lạc, và triều đại đó dần dần suy
tàn. Lịch sử mấy ngàn năm qua của TQ là lịch sử của các giai đoạn thịnh trị và
loạn lạc kế tiếp nhau. Mỗi khi triều đại mới thay thế triều đại cũ thì các vị
mua mới lại tái sử dụng cơ chế quản trị xã hội cũ, cơ chế “tự do sơ khai”.
Việc
tái sử dụng cơ chế “tự do sơ khai” của các triều đại đã kéo dài hơn hai ngàn
năm từ thời Tần Thủy Hoàng đến nay. Người nghiên cứu cho rằng sự kéo dài ấy có
nguyên nhân văn hóa. Rằng cái hay cái đẹp của văn hóa TQ làm cho các vị vua
luôn thích tái sử dụng cơ chế “tự do sơ khai”.
Cơ chế
“tự do sơ khai” cũng có thể ví như cái lồng (bu gà) mà Hoàng đế chụp lên toàn
bộ xã hội, chụp lên mọi thân phận, mọi cuộc đời, mọi quan hệ. Người dân chỉ có
quyền tự do leo lên từng nấc bậc nào đó trong những mắt lưới của cái lồng ấy, và có thể bị hất xuống bất kỳ lúc
nào.
Theo
các thuật ngữ hiện đại, nguyên nhân của việc tái sử dụng cơ chế tự do sơ khai,
hay tái sử dụng bu gà, nằm ở tính hiệu quả cái bu gà. Thứ nhất ý chí tự do của Vua cũng không lớn lắm.
Ông ta cũng chỉ dùng quyền tự do vô hạn của mình vào các mục đích cá nhân như
thể hiện uy quyền, yến tiệc, săn bắn, làm thơ, chơi gái... Sản vật thu được
trong vương quốc đủ để thỏa mãn các nhu cầu của Vua. Mặt khác, quyền tự do vô
hạn của Vua luôn bị thu hẹp bởi các quan hệ phức tạp giữa các quan, các thế lực
cung đình, các bà vợ Vua, các Hoàng tử…Còn dân thì sử dụng quyền tự do hạn chế
của mình vào việc mưu cầu sống. Người dân nếu đủ khôn khéo thì cũng tạm sống. Thứ hai, chi phí bảo vệ quyền
tự do không quá lớn. Vua cần một hệ thống quan lại và quân đội “vừa phải” là
giữ được ngai, tức giữ được tự do (giữ được vị trí độc tài của mình). Còn
“thiên mệnh” thì được bảo vệ bởi lý thuyết Nho Giáo. Thực tế, để bảo vệ tự do
của mình, Vua ít khi phải dùng con bài phủ quyết là thu hẹp tối đa tự do của
dân, vốn đã rất hạn chế.
Như
vậy, việc tái sử dụng cơ chế “tự do sơ khai” chỉ chứng minh rằng cơ chế ấy có
tính hiệu quả khá cao trong điều kiện dân trí thấp.
Tuy
vậy, nhận định này chỉ đúng trong nửa đầu của lịch sử đế chế TQ từ Tần Thủy
Hoàng đến năm 1127 (Năm nhà Bắc Tống mất).
Từ đời
Nam Tống (sau năm 1127), cơ chế “tự do sơ khai” luôn luôn bị thách thức bởi các
mâu thuẫn mang tính toàn cầu, chứ không chỉ riêng bởi các mâu thuẫn nội tại
nữa.
Thực
vây, cơ chế “tư do sơ khai” đã bị đạp đổ (hay cái bu gà đã bị hất tung) nhiều
lần trong nửa sau của đế chế:
-Lần thứ nhất bởi sức mạnh cơ bắp của vó ngựa Mông Cổ (năm 1279, nhà Nam
Tống mất). Người sáng lập ra đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn. Ông là người
có ý chí cao và có những đội kỵ binh vô cùng mạnh mẽ. Vó ngựa của quân Mông Cổ
đã tràn khắp lục địa Á-Âu, và đã đạp đổ đế chế “tự do sơ khai” của Trung Quốc.
-Lần thứ hai bởi sức mạnh tổ chức của Mãn Thanh. Nhà Thanh khởi đầu là
một dân tộc thiểu số ở Đông Bắc Trung quốc, thuộc về tộc người Nữ Chân. Họ giỏi
chịu rét, rất có kỷ luật. Vua của họ chia tất cả các người dân thuộc vào một
trong tám đội quân. Mỗi đội quân mang một loại cờ có mầu khác nhau. Có tất cả
tám mầu cờ. Cả nước bao gồm tám binh đoàn thiện chiến, gọi là Bát Kỳ. Tổ chức
chặt chẽ ấy đã đánh bại nhà Minh và lập ra nhà Thanh, đế chế cuối cùng và là đế
chế rộng lớn nhất trên đất Trung Hoa.
-Lần thứ ba bởi sức mạnh hơi nước của liệt cường vào nửa sau thế kỷ 19
và những năm đầu thế kỷ 20. Sức mạnh hơi nước là cách nói tắt về cuộc cách mạng
công nghiệp của phương Tây. Khi đó, Phương Tây đã trải qua mấy cuộc cách mạng
xã hội ở Pháp, ở Anh. Các cuộc cách mạng ấy đã tạo ra các nước tư bản có trình
độ tự do cao hơn “tự do sơ khai” rất nhiều. Các nhà tư bản tổ chức sản xuất
hàng hóa ở quy mô công nghiệp ngày càng lớn. Họ luôn luôn cần thị trường, tức
luôn cần bán hàng. Họ dùng các đội thuyền buôn chay bằng tàu hơi nước để bán
hàng, họ đàm phán thương mại để bán hàng, họ xâm chiếm thuộc địa để bán hàng.
Lúc đó nhà Thanh không mở cửa và đã bị sức mạnh hơi nước đánh sập.
3.
Sự thu hẹp tự do ở Trung Quốc hiện đại
Ba lần
sập đổ của cơ chế “tự do sơ khai” kể trên chứng tỏ rằng cơ chế ấy không có sức
bền vĩnh viễn. Hay nói khác đi mô hình Hoàng đế của Trung Hoa không còn có thể
tái sử dụng trong thời đại mới. Hơn nữa thời đại mới, thời đại của công nghệ,
chính là thời đại có tự do lớn nhất trong lịch sử nhân loại, trong đó mọi người
đều có quyền tự do sáng tạo tối đa, không bị hạn chế bởi bất cứ cái gì, thậm
chí quyền tự do sáng tạo của một người bình thường còn lớn hơn quyền tự do giết
người của các vị Hoàng đế Trung Hoa cổ đại.
Trong
khi đó, sau khi thành lập nước Công Hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949, ĐCS đã tái
sử dụng lại cơ chế “tự do sơ khai” để quản trị đất nước. Bây giờ Hoàng đế không
còn là một người duy nhất, nhưng lại là một tập thể bộ Chính trị với hạt nhân
là Tổng bí thư. Tuy vậy, có những sự thay đổi đáng kể. Cụ thể, tự do cá nhân
của chủ tịch Mao còn lớn hơn tự do của các vị Hoàng đế. Mặt khác, tự do hạn chế
của nhân dân còn bị cắt xén mạnh hơn thời vua chúa. Dưới thời Mao, nhân dân
không những không thể tích lũy tài năng và kiến thức để vươn lên các vị trí cao
trong xã hội, mà họ còn bị tước đoạt quyền sống cơ bản là quyền tự do kinh
doanh (kinh doanh theo nghĩa cơ bản nhất là tìm cái cho vào miệng, nên người ta
gọi kinh doanh là làm ăn). Nhân dân chỉ còn có thể kiếm sống trong các HTX và
các xí nghiệp nhà nước.
Sau khi
Mao chết, nước Trung Quốc có sự thay đổi về tự do cho nhân dân đôi chút. Người
dân đã có thể được tự do kinh doanh để sống no đủ hơn. Ngược lại, giới tư bản
thân hữu có tự do nhiều hơn dân thường và họ nhanh chóng giàu lên. Tài lực quốc
gia của TQ vì vậy tăng nhanh chóng. TQ đã trở thành nước giàu thứ hai trên thế
giới về kinh tế. Cùng lúc đó, chi phí để bảo vệ tự do của ĐCS tăng cao. Họ đã
phải giết người để bảo vệ tự do của ĐCS (như ở Thiên An Môn, ở Tân Cương, ở Tây
Tạng, hoặc giết mổ nội tạng của học viên Pháp Luân Công.). Họ đã phải ăn cắp
tự do vốn rất hạn chế của nhân dân để tăng tự do của ĐCS bằng cách thu hẹp tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản. Cho nên, mặc dù tái sử dụng mô
hình bu gà, tái sử dụng cơ chế “tự do sơ khai”, ĐCS đã tái sử dụng phiên bản
kém nhất của các Hoàng đế, phiên bản nô lệ. Để duy trì chế độ tự do cho riêng
mình, ĐCS đã phải sử dụng một lực lượng lớn nhân viên an ninh, cảnh sát, quân
đội, các hội đoàn thân đảng….
Trong
khi đó, ở các nước dân chủ tiến bộ, tự do đang được phổ cập cho mọi thành viên.
Nếu muốn làm chính trị, ai cũng có thể tự do phấn đấu để trở thành Tổng Thống,
thậm chí là người da mầu như Obama. Nếu muốn làm giầu, ai cũng có tự do để trở
thành người giàu nhất hành tinh như Bill Gate, Steve Jobs… Nếu muốn đi vào vũ trụ, ai cũng có tự
do phóng tên lửa như Elon Musk. …. Quyền tự do của một vị tổng thống và một
người dân thương thực tế là bằng nhau. Lực lượng bảo vệ tự do là tất cả mọi
người dân, thông qua lá phiếu của mình, chứ không phải đơn giản là các lực
lượng cầm súng.
Ngược
lại, ở TQ chênh lệch tự do ngày càng lớn. Sự chênh lệch ấy, trong điều kiện tức
thời, là đòn bẩy độc tài làm cho kinh tế TQ giàu lên. Nhưng khi đã giàu lên,
thì Hoàng đế Trung Hoa hiện đại Tập Cận Bình lại muốn áp dụng mô hình ấy ra
toàn thế giới bằng “ước mơ Trung Hoa”, bằng sáng kiến “một vành đai, một con
đường”. Nhưng thưa ông Tập Cận Bình, không thể áp dụng mô hình tự do thấp cho
một thế giới tự do cao. Chính vì vậy, theo cụ Trần Đình Hiến, kinh tế Trung
Quốc nhất định sụp đổ. Nó sẽ sụp đổ không phải vì Tổng Thống Mỹ Donald Trump,
mà vì chính ý chí muốn áp đặt tự do thấp cho một hệ tự do cao. Cuộc chiến
thương mại mà Mỹ đang tiến hành chỉ là phản ứng của hệ tự do cao đối với ý đồ
của Trung Quốc.
NGUYỄN THẾ HÙNG (Viet-studies 13/11/2018)
Hay quá!
RépondreSupprimer