Tôi viết bài dưới đây đã 5 năm nhưng rất tiếc nội dung vẫn còn tính thời sự.
Mong những người liên quan, nhất là các quan chức có trách nhiệm, hiểu vấn đề
để đừng mù quáng lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc.
Sự kiện đường sắt Cát Linh-Hà Đông và nguyên nhân lệ
thuộc kinh tế Trung Quốc
(Viết vào mùa hè năm 2015 nhưng rất tiếc là vẫn còn nguyên giá trị)
(Viết vào mùa hè năm 2015 nhưng rất tiếc là vẫn còn nguyên giá trị)
Tháng 6 năm 2015
dư luận trong nước xôn xao về sự kiện Việt Nam mua 13 đoàn tàu của Trung Quốc
cho tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông. Người dân đặt nghi vấn là tại sao phải
mua của Trung Quốc, trong khi công nghệ tàu đường sắt của các nước tiên tiến
chất lượng cao hơn. Hơn nữa, Việt Nam đang nhập siêu nhiều với Trung Quốc, ai
cũng thấy phải cải thiện quan hệ một chiều này.
Bộ trưởng Giao
thông Vận tải Đinh La Thăng đã giải đáp thắc mắc nầy trong buổi gặp mặt báo chí
ngày 9/6/2015. Nếu những ý kiến của Bộ trưởng phản ảnh trên báo là chính xác
thì thật đáng lo cho Việt Nam. Tôi thật sự ngạc nhiên nhưng hiểu được lý do tại
sao Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc trong nhiều phương diện.
Sự kiện này cho
thấy nhiều lãnh đạo, quan chức Việt Nam, những người quyết định vay vốn nước
ngoài, không hiểu hoặc không chịu tìm hiểu tình hình và chế độ hiện hành trên
thế giới để so sánh điều kiện của Trung Quốc với các nước khác, từ đó quyết
định chọn nước đối tác có lợi nhất cho Việt Nam.
Trong dự án 13
đoàn tàu nói trên, được biết Trung Quốc cho vay vốn và đặt điều kiện phải dùng
tiền đó mua tàu của họ. Bộ trưởng Đinh La Thăng bảo rằng nước nào cho vay cũng
đặt điều kiện như vậy, chẳng hạn Nhật Bản hay Hàn Quốc cũng như vậy. Điều này
hoàn toàn sai. (Trước khi chứng minh nhận định đó là không đúng, ta có thể đặt
thêm một câu hỏi nữa: Nếu các nước khác cũng có cùng điều kiện đó, tại sao lại
chọn Trung Quốc? Công nghệ của Trung Quốc cao hơn sao?)
Vấn đề các nước
tiến tiến hỗ trợ vốn vay ưu đãi (gọi là ODA mà ở Việt Nam dịch là viện trợ phát
triển chính thức) cho các nước đang phát triển có một lịch sử đã trên 50 năm.
Trong giai đoạn đầu (khoảng trước thập niên 1980), đúng là hầu hết ODA đều có
ràng buộc phải mua máy móc, vật liệu, tư vấn kỹ thuật từ nước cho vay (gọi là
tied loan). Sau đó hình thức nầy dần dần chỉ còn là ngoại lệ, nhường chỗ cho
hình thức cho vay không ràng buộc (untied loan) phổ biến hơn. Đó cũng là kết
quả của các thỏa thuận giữa Mỹ, Nhật, Pháp, Đức, Anh.., những thành viên trong
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Để cho dễ hiểu và
đi ngay vào vấn đề, tôi giới thiệu trường hợp của Nhật Bản tại Việt Nam hiện
nay. ODA của Nhật Bản có 2 loại: Loại tặng không (grant) dùng cho lãnh vực giáo
dục, y tế,… và loại cho vay (yen loan) dùng cho việc xây dựng hạ tầng. Loại cho
vay cũng có hai hình thức: Vay không ràng buộc (untied loan) trong đó nước đi
vay có thể mua vật tư, thiết bị, tư vấn kỹ thuật từ bất cứ nước nào xét thấy có
lợi nhất (qua hình thức đấu thầu công khai). Hình thức thứ hai là vay có ràng
buộc (tied loan) nhưng điều kiện rất ưu đãi mà Nhật gọi là STEP (Special Term
for Economic Partnership).
Loại STEP ràng
buộc nên điều kiện lãi suất ưu đãi hơn loại untied loan. Cần nói thêm là tuy
STEP là loại tied loan nhưng các công ty Nhật Bản phải cạnh tranh với nhau
trong đấu thầu. Các nước nhận ODA có thể chọn lựa giữa hai hình thức này. Theo
tôi biết, hầu hết các nước ASEAN nhận cả hai loại ODA vì loại ràng buộc cũng dễ
chấp nhận do lãi suất được ưu đãi hơn loại untied loan và kỹ thuật, công nghệ,
máy móc của Nhật được đánh giá cao.
Thực tế ở Việt
Nam cho thấy, trong 5 năm qua (2010-2014), bình quân mỗi năm ODA của Nhật Bản
cung cấp cho Việt Nam theo hình thức STEP là 45 tỉ yen (lãi suất chỉ có 0,1%)
và theo hình thức untied loan là 124 tỉ yen (thời hạn 30 năm, lãi suất
1,4%/năm). Như vậy ODA không ràng buộc vào công ty Nhật Bản chiếm tới 73%,
nghĩa là công ty Nhật phải tham gia đấu thầu trong các dự án phát sinh từ nguồn
vay nầy. Tỉ lệ công ty Nhật thắng thầu cũng chỉ có 36%, không phải 100% như
nhận định của ông bộ trưởng.
Ngay cả trường
hợp STEP là loại có thể hoàn toàn ràng buộc vào Nhật, công ty Nhật cũng chỉ
chiếm 87% vì họ mời các công ty Việt Nam cùng tham gia trong việc cạnh tranh
với các công ty khác của Nhật. Một thí dụ gần đây là dự án sân bay Nội Bài tuy
theo hình thức STEP nhưng được thực hiện bởi công ty Xây dựng Taisei của Nhật
và Công ty Vinaconex của Việt Nam, dự án cầu Nhật Tân cũng do một liên doanh
giữa Nhật và Việt Nam xây dựng.
Việt Nam hiện
đang nhận nhiều ODA, trách nhiệm của lãnh đạo, của quan chức liên hệ là làm sao
phải chọn lựa những nguồn vốn vay với điều kiện ít phí tổn nhất và mang lại
hiệu quả lớn nhất.
Trong quan hệ với
Trung Quốc, ta đã thấy có nhiều hiện tượng bất bình thường, như nhập siêu tăng
ở mức dị thường, doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu hầu hết các dự án trọng
điểm trong các ngành quan trọng của Việt Nam. Nhiều dự án họ đưa giá rẻ nhưng
sau khi thắng thầu họ điều chỉnh giá và thương lượng lại, nhiều dự án không xây
dựng đúng tiến độ và nhiều trường hợp công trình mới xây xong đã bị hỏng hoặc
xuống cấp, v.v.. ,.. Lao động chui và lao động được cấp phép từ Trung Quốc sang
cũng nhiều một cách khó hiểu.
Nguyên nhân nằm ở
đâu? Dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông đã cho thấy một phần của vấn đề. Trước
mắt cần công khai nội dung (quy mô vốn vay, thời hạn hoàn trả, ràng buộc hay
không, lãi suất, v.v..) tất cả các dự án vay vốn nước ngoài để xây dựng hạ
tầng.
Bây giờ là lúc
phải chỉnh đốn ngay các quan hệ kinh tế với Trung Quốc, từng bước điều chỉnh để
kéo các hiện tượng bất thường nói trên trở lại trạng thái bình thường, giống
như quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác./.
(Bài đã đăng trên
Thời báo Kinh tế Saigon, sau đó in lại trong sách: Trần Văn Thọ, Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam, NXB Tri thức,
2015, tái bản 2016)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.