dimanche 21 juin 2020

Ngô Thị Kim Cúc - Qua sông Bến Hải, ra Hà Nội làm báo



Phụ Nữ Việt Nam là tuần báo, "Tiếng nói của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam", tờ báo tôi làm việc từ giữa năm 1976, khi hai chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và "hợp nhất". "Hợp nhất" là từ dùng của thời điểm đó, tới nay thì ý nghĩa của từ này đã được hiểu theo cách mở rộng hơn nhiều rồi.

Lúc chuẩn bị giải thể cấp khu, thủ trưởng Hội Văn nghệ Giải phóng Khu Trung Trung bộ, nhà văn Nguyễn Chí Trung đã gợi ý cho tôi: Nếu muốn viết cho sâu sát, sâu sắc về đất nước lúc này thì hãy vào thanh niên xung phong, lên tây nguyên, thâm nhập thực tế cuộc sống…

Các nhà văn trẻ hơn trong cơ quan không nghĩ như anh. Anh Hoàng Hỡi (nhà thơ người dân tộc Tày, bí thư chi đoàn), và anh Nguyễn Khắc Phục bảo tôi: -Cúc đừng có nghe lời anh Trung. 

Họ chỉ nói vậy mà không giải thích. Tôi không làm theo anh Trung. Lý do: tôi mới từ Sài Gòn về Đà Nẵng ăn tết Ất Mão 1975, và đất nước đang đổi thay quá lớn, tôi không muốn lại rời xa gia đình lần nữa.

Lúc đó, Văn nghệ Khu 5 đang có hai thanh niên thành phố vào làm việc, chưa có biên chế: Nguyễn Công Khế từ nhà tù Chí Hòa, Sài Gòn sau trao đổi tù binh, và tôi từ trường Khoa Học Sài Gòn. Chúng tôi phải tìm cơ quan mới, vì các anh chị từ rừng về sẽ chuyển biên chế sang cơ quan khác khi khu giải thể.

Cuối cùng thì anh Trung đã tìm ra nơi cho chúng tôi chuyển tới: báo Phụ Nữ Việt Nam. 

Tôi sẽ đi cùng xe, dịp các anh Văn Nghệ Khu 5 ra Hà Nội họp, để hợp nhất văn nghệ hai miền. Lúc đó là hạ tuần tháng 6/1976. Các lễ nghi chính thức sẽ diễn ra vào đầu tháng 7.

Chiếc xe U-oát của Liên Xô chở sáu người, kể cả tài xế: các anh Nguyễn Chí Trung, Phan Tứ, Thu Bồn, Nguyễn Khắc Phục, và tôi. Nó còn chở thêm rất nhiều xăng, cộng với gạo và thực phẩm cho cả hành trình. 

Xăng của Liên Xô rất nặng mùi. Tôi được báo tin lên đường quá sát. Tối hôm tôi trước mất ngủ vì nỗi náo nức sắp được ra Hà Nội, sắp được nhìn thấy cầu Hiền Lương sông Bến Hải. Buổi sáng gấp rút soạn va ly, trưa nôn nao hồi hộp quá không sao ăn nổi, nên lên xe lúc khởi hành đầu giờ chiều tôi rất mệt. Đã vậy còn phải hít hơi xăng ngập ngụa. 

Tới đèo Hải Vân thì tôi bắt đầu ói, sau những khúc ngoặt tài xế cua gấp, ruột gan lộn tùng phèo. Suốt đường đèo hai mươi cây số, xe phải ngừng nhiều lần cho tôi xuống. Ói hết cả mật xanh mật vàng, người tôi rũ ra không còn chút hơi sức. Tới mức tôi nghĩ, có lẽ phải quay lại Đà Nẵng, chờ mua vé đi sau. Vậy mà cuối cùng, không hiểu sao với cái bụng trống rỗng, cái đầu chơi vơi, tôi vẫn tiếp tục ngồi được trên xe, chịu trận.

Tôi chỉ chờ để nhìn tận mắt, quan sát thật kỹ cầu Hiền Lương sông Bến Hải nên dặn anh Phục, lúc sắp qua cầu nhớ nhắc để tôi chuẩn bị tinh thần. Tôi hình dung cầu Hiền Lương sông Bến Hải phải hết sức to rộng, ấn tượng, bởi nó là nơi chia cắt người Việt Nam với biết bao đau đớn, tổn hao máu xương… Không ngờ lúc anh Phục bảo “Vừa qua cầu Hiền Lương đó Cúc”, tôi ngoái lại, chỉ thấy một vùng quê chẳng có gì khác so với những nơi đã đi qua, cầu và sông hầu như đã biến mất, lòng tôi tràn ngập nỗi bất ngờ đầy thất vọng: Sao cái nơi nhỏ bé, bình dị, có vẻ hiền lành này lại làm khổ người Việt Nam dài lâu đến thế !

Có lẽ anh Phục cũng chưa thuộc hết cảnh vật trên con đường nam bắc mới khai thông, bởi anh cũng chỉ mới một lần đi phép thăm nhà sau tháng 4/1975, nên không thể nhắc tôi trước khi xe qua cầu… Và tôi chỉ có thể biết rằng mình đã ở trên đất bắc, dù chưa hề nhìn thấy cả cây cầu lẫn con sông lịch sử.

Lúc xe tới Quảng Bình, các anh vào nhà dân xin nấu nhờ cơm, bảo tôi cứ nghỉ ngơi chờ cơm chín. Lần đầu vào một nhà dân miền bắc, tôi tò mò nhìn ngắm tất cả mọi thứ lọt vào tầm mắt. Mà thật ra, cũng chẳng có gì để ngắm: ngôi nhà tranh vách đất hầu như không có đồ đạc gì ngoài cái giường tre ọp ẹp, dưới gầm giường lăn lóc bao nhiêu là khoai. Anh Trung hát vui “Quảng Bình, khoai khoai toàn khoai…”. Tôi cứ tưởng anh tự chế ra để hát, sau này mới biết đó là một bài hát nổi tiếng, anh chỉ đổi lời.

Suốt chiều dài con đường đi qua, xe chúng tôi gặp rất nhiều xe quân sự, cứ hai chiếc dính nhau làm một: chiếc trước chạy bình thường, dùng dây xích kéo chiếc xe chạy sau không nổ máy. Tài xế xe chúng tôi, cũng là bộ đội xuất ngũ, giải thích: Đó là cách bộ đội “tiết kiệm” xăng. Tất nhiên không phải tiết kiệm cho quân đội. Tôi nhớ tới những anh lính miền bắc, hành trang trên đường về phép ra thăm quê luôn có con búp bê nhựa loại rẻ tiền mắt nhắm mở được, cột bên ngoài ba lô. Hẳn nó đã được mua bằng số tiền tiết kiệm xăng kiểu này.

Tới Thanh Hóa, xe lại ghé vào nhà dân xin nấu nhờ cơm. Các anh mượn thêm cái chén để đựng nước mắm. Tôi nhìn kỹ cái chén ăn cơm bằng sành đó: nó sứt sẹo và không còn rõ màu gì, lại có một lỗ thủng bằng đầu ngón tay đã được hàn lại bằng đất sét chưa nung chín. Tôi hiểu ra rằng, người dân miền bắc trong chiến tranh thật sự nghèo đến mức nào.

Một tai nạn trên đường: Trời mưa, đường rất trơn, và một con nghé đang đi bên lề cùng cả bầy bỗng dưng lồng lên, nhảy xổ vào trước đầu xe. Tài xế không tránh kịp, tông vào nó rất mạnh. May là xe không bị đổ. Nhưng con nghé nằm quay đơ ra, chết ngay lập tức.

Mọi người xuống xe, lo lắng. Con nghé này của hợp tác xã, là cả một tài sản. Ai cũng lo rằng người của hợp tác xã sẽ kéo đến, và chắc chắn sẽ có nhiều chuyện rắc rối phiền toái, trong khi thời gian rất quý. Đường đi ngày càng đông nghẹt xe ra họp, và rất nhiều những ngầm, những cầu phao, xe phải xếp hàng chờ nhiều tiếng đồng hồ mới tới lượt.

Cuối cùng, người của hợp tác xã cũng xuất hiện. Và thật ngạc nhiên, họ không hề làm khó dễ chúng tôi. Lý do họ nêu ra: tai nạn chỉ do xui xẻo, cho cả hai phía. Con nghé sẽ được họ mang về xẻ thịt.

Lúc lên lại xe, ai nấy thở phào. Tài xế lại giải thích: Nghé hợp tác xã không dễ gì ngã thịt. Nay bỗng dưng có dịp ăn thịt nghé, họ phải cảm ơn mình mới đúng.

Quả là nhiều chuyện mà tôi không hình dung được. Trên con đường bắc nam chật chội và lở lói, hỏng nát do bom, xe của cán bộ miền nam ra họp chen chúc nhau, cả xe quân sự lẫn dân sự. Anh Trung mặc quân phục ngồi ghế trước cạnh tài xế, đeo lon trung tá, tướng nghiêm chỉnh bệ vệ. Đến những chỗ phải xếp hàng, anh ung dung tới gần bộ phận bảo vệ, lớn giọng nói vài câu rất oai phuông kiểu “thủ trưởng có công tác gấp”, thế là sớm muộn gì họ cũng “chấp hành”, cho phép xe chúng tôi được ưu tiên lên phía trước. 

Anh Thu Bồn cao lớn bự con, mặt lạnh yêng hùng, sẽ xử lý những trường hợp không chính thống. Đó là khi các tài xế bắng nhắng, không hiểu vì cớ gì cứ sàng qua sàng lại chặn đầu, nhứt định không cho xe chúng tôi qua mặt. Anh Thu Bồn quạu lắm, chồm hẳn người ra khỏi xe, chĩa thẳng mũi súng về phía bọn cà khịa, chúng mới vội vàng dạt sang bên để chúng tôi đi qua. 

Lần đầu tôi biết thế nào là "ngầm". Là những khúc sông mà, thay vì chạy trên cầu xây cao khỏi mặt nước, xe sẽ chạy trên mặt đường làm thấp chìm dưới mặt nước, hẳn là để tránh bom. Những cái ngầm như thế buộc hàng xe dài dằng dặc phải biết điều yên lặng xếp hàng chờ đến lượt, nếu lộn xộn thì coi chừng bị quát “ra ngoài kia chờ”. Tôi nghe có nhiều xe đã phải chờ từ ngày hôm trước. Trời đang mưa lê thê, bùn đất lầy lội lấm láp khắp nơi… 

Cầu phao cũng là thứ tôi mới biết lần đầu. Cầu bị sập do bom không được làm lại, mà thay vào đó là các phao nổi xếp liền nhau làm cầu. Xe chạy qua cầu phao cứ chông chênh, nghiêng ngả, mới thấy chiến tranh vẫn còn hiện diện rất rõ trên từng cây số con đường bắc nam thống nhất. 

Trên xe, anh Phục kể cho tôi các câu chuyện về Hà Nội, trái ngược với những gì tôi đã đọc trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng. “Em sẽ thấy các cô gái Hà Nội rất đặc biệt, lái xe bằng mông”. Là sao, tôi chẳng tưởng tượng ra được. Tôi đã đọc bài của Phan Nhật Nam khi ông có mặt ở Hà Nội trong các cuộc trao đổi tù binh sau Hiệp định Paris 1973. Rằng chẳng hề còn áo lụa khăn quàng, mà thiếu nữ Hà Nội giờ chỉ rặt áo bà ba và đạp xe chạy khắp đường phố. Anh Phục giải thích, do xe cao hơn cỡ người (có thể là xe dành cho đàn ông), nên các cô gái phải rướn người vặn vẹo mới với tới pê-đan để đạp. 

Trái ngược với lúc mới lên xe xanh xao ủ rũ bao nhiêu thì khi càng gần về tới gần Hà Nội, tôi càng phấn chấn tươi tỉnh bấy nhiêu, cho dù đã qua mấy ngày đường nhồi lắc và ăn ngủ tạm bợ. Tôi chờ gặp một Hà Nội thân thương quen thuộc, gắn bó từ những giờ kim văn thời trung học, đó là Hà Nội của Vũ Bằng, Thạch Lam, Nhất Linh, Hoàng Đạo…

Thế nên, khi nhìn thấy khu tập thể Kim Liên (nhà anh Phục, để anh chuyển quà cho gia đình), khi xe chạy ngang công viên Thống Nhất, ngang Hồ Gươm đang chăng đèn kết hoa “chào mừng ngày hợp nhất hai miền”, tôi đã nhận ra, Hà Nội trong trí tưởng học trò của tôi không còn nữa. Đây là một Hà Nội khác, một Hà Nội hai mươi mốt năm sau chia cắt đất nước.

Đến đường Hàng Bạc nhà chú tôi, các anh mang va-ly vào giúp tôi, dặn dò tôi những việc phải làm với cơ quan mới rồi chia tay tôi để tới địa chỉ nơi tổ chức họp. Nhà chú tôi không có ai. Mọi người đều đã đi làm đi học. Tôi ngồi ở bậc thềm chờ cô em con chú tan học về mở cửa.

***

Ngày hôm sau, tôi tới tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam trình diện. Trụ sở báo ở số 47 Hàng Chuối, cách vài số nhà là trụ sở của Hội Liên hiệp Phụ Nữ Việt Nam và Nhà Xuất bản Phụ Nữ. Những ngôi nhà này sẽ kết dính cùng tôi trong ba năm làm việc ở báo, với rất nhiều khám phá về miền bắc. 

Mọi chuyện bắt đầu khi tôi viết những dòng đầu tiên cho lý lịch làm báo của mình. Đó là dòng chữ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ngay dưới là một dòng khác: Độc lập-Tự do-Hạnh phúc. Không hiểu sao tôi cứ nhớ như in câu đùa của một anh/chị nào đó: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa/Đàn ông thì thiếu đàn bà thì dư. Một người khác đế thêm: Độc lập-Tự Lo-Hạnh phúc.

Ui trời, đúng là nhà-báo-ba-gai. Người cầm bút ở đâu cũng ba gai, cứng đầu khó bảo. Có lẽ nếu không như vậy, nếu cứ ngoan thin thít cứ gọi-dạ-bảo-vâng thì bài báo viết ra sẽ nhạt như nước ốc. Mà báo nhạt không bán được thì lại phải lấy tiền dân nuôi báo cô bọn làm báo. Chớ báo dở/báo nhạt thì bán cho ai. 

Dân đâu có dư tiền. Và dân đâu có ngu.

Chuyện làm báo ở Phụ Nữ Việt Nam là cả một trường thiên rất dài, mà tôi sẽ kể trong một dịp khác.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.