Bài viết rất dài đăng trên trang
Soha ngày 15.05.2020 nhân đám tang ông trùm tình báo cộng sản Trần Quốc Hương
(Mười Hương). Tuy mang khẩu vị báo nhà nước, nhưng có nhiều chi tiết đáng
chú ý.
1/ Người chỉ huy 4 lưới tình báo của
trung ương và khối điệp báo chủ yếu của miền
Ông
Trần Quốc Hương (Mười Hương) hoạt động cách mạng từ tiền khởi nghĩa, từng bị
thực dân Pháp cầm tù, là cộng sự thân cận gần gũi cụ Hồ, tổng bí thư Trường
Chinh và nhiều nhà lãnh đạo "khai quốc" khác.
Trong
kháng chiến chống Pháp, ông làm Phó giám đốc Nha tình báo trung ương. Năm 1954,
ông được cử vào Nam làm nhiệm vụ đặc biệt cùng với Xứ ủy Nam bộ tổ chức mạng
lưới tình báo nhằm chuẩn bị thi hành hiệp định Geneve thống nhất đất nước.
Tuy
thời gian ngắn ngủi, nhưng những mạng lưới tình báo do ông tổ chức đã phát huy
tác dụng đáng sợ đối với đối phương, khiến cho thế giới kinh ngạc và để lại sự
ngưỡng mộ dài lâu trong dân chúng. Những nhà tình báo chiến lược huyền thoại
như Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy… đều do ông trực
tiếp phụ trách và chỉ đạo đường hướng trong thời gian đầu. Trong khi đường dây
Vũ Ngọc Nhạ - Lê Hữu Thúy – Huỳnh Văn Trọng bị lộ gây chấn động chính trường
Sài Gòn thì mãi nhiều năm sau năm 1975 người ta mới biết có những nhà tình báo
lẫy lừng hơn mà trước đó không ai ngờ tới, như Phạm Xuân Ẩn và Phạm Ngọc Thảo.
Ông
Mười Hương giữ vai trò trọng yếu trong việc tổ chức hệ thống tình báo miền nam
sau năm 1954. Xin nhắc lại, là tổ chức mạng lưới tình báo nhằm chuẩn bị thi
hành Hiệp định Genève, bởi vì nhiều tài liệu lịch sử, kể cả những tài liệu mật
trước đây đều cho thấy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành tâm muốn thống nhất đất
nước bằng con đường hòa bình thông qua tổng tuyển cử tự do.
Vào
tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra một nghị quyết, trong đó xác định phương thức đấu
tranh cách mạng ở miền nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh
chính trị. Tôi có nhiều bằng chứng thực tế cho thấy, toàn bộ đảng viên Đảng Lao
động Việt Nam ở lại miền Nam hoạt động đều không được phép trang bị vũ khí,
người nào cố tình chống lệnh sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Trong
thời gian này, ông Mười Hương được giao nhiệm vụ đại diện cho Nha Liên Lạc (cơ
quan tình báo trực thuộc Thủ tướng phủ, còn gọi là Nha tình báo trung ương)
được Trung ương Đảng giới thiệu và được Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp giao
nhiệm vụ vào gặp Trung ương Cục để truyền đạt chủ trương lập Ban Nghiên cứu Xứ
ủy Nam bộ (cơ quan tình báo của Xứ ủy) và phương hướng nhiệm vụ trong tình hình
mới. Ông còn có nhiệm vụ giúp Ban này về nghiệp vụ tình báo và huấn luyện công
tác điệp báo cho các điệp viên và cán bộ của Ban.
Lúc
giao nhiệm vụ cho ông Mười Hương, Tổng bí thư Trường Chinh cũng nói rõ :
"Cuộc đấu tranh đòi địch phải thi hành Hiệp định Geneve là một cuộc đấu
tranh gian khổ, gay go, phức tạp. Hiệp định có thể được thực hiện, cũng có thể
không được thực hiện, tình báo phải tìm hiểu kỹ về địch để có căn cứ chính xác
kết luận xem âm mưu ý đồ của địch có chịu thi hành Hiệp định hay không và sau 2
năm có tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước hay không".
Khi
Ban Nghiên cứu Xứ ủy thành lập, ông Mười Hương được chỉ định tham gia lãnh đạo
Ban, trực tiếp phụ trách các lưới tình báo chính trị đi sâu vào các cơ quan đầu
não của chế độ Sài Gòn, các lưới tình báo kinh tế, đồng thời thay mặt cơ quan
tình báo trung ương chỉ đạo một số lưới tình báo chiến lược.
Từ
năm 1954 đến năm 1957, dù rất khó khăn do bị địch thường xuyên đánh phá, nhưng
nhiều lưới tình báo đã hình thành, giao thông liên lạc tương đối thông suốt
giữa các cơ quan tình báo trung ương với cơ quan tình báo xứ ủy và các lưới
tình báo với cơ quan chỉ huy.
Vào
tháng 6 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định sát nhập Nha Liên lạc với
Cục Quân báo thành Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu. Đó là cơ quan tình báo chiến
lược của quốc gia. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được phân công phụ trách ngành tình
báo chiến lược, ông nói: "Tổ chức là như vậy, nhưng nhiệm vụ của nó là
nhiệm vụ chiến lược toàn diện, không thu hẹp trong lĩnh vực quân sự".
Kể
từ đây mạng lưới tình báo chiến lược được chỉ đạo thống nhất. Ông Mười Hương
được giao phụ trách khối điệp báo chủ yếu của Xứ ủy và 4 lưới tình báo chiến
lược của trung ương. Từ năm 1955, do từ miền bắc vào ít người biết nên ông Mười
Hương đã vào hoạt động hợp pháp tại Sài Gòn để trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các
lưới tình báo.
Ông Mười Hương (hàng đầu, thứ ba từ trái sang) cùng những nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy... |
2/ Cuộc đấu trí với Ngô Đình Cẩn, Ngô
Đình Nhu trong địa ngục trần gian Chín Hầm
Các
hoạt động phản gián của cơ quan mật vụ của anh em ông Ngô Đình Diệm thật đáng
gờm. Từ cuối năm 1957, một loạt điệp viên bị bắt, bắt đầu từ một số giao liên ở
Thừa Thiên Huế bị bắt không giữ được khí tiết đã khai ra, khiến cho các mạng
lưới bị đổ vỡ dắt dây, gây ra sự khủng hoảng trầm trọng uy hiếp cơ quan tình
báo Xứ ủy.
Tuy
Cục Tình báo Trung ương sớm biết một số người bị bắt đã khai báo, nên đã điện
vào chỉ thị phải lấy việc bảo vệ lực lượng làm chính, cắt liên lạc với trung
ương, nếu thấy bị theo dõi thì phải tạm ngừng hoạt động. Nhưng khi điện vào thì
ông Mười Hương đã vào Sài Gòn, bức điện sau đó mới chuyển được cho ông nhưng đã
muộn.
Ông
Mười Hương bị bắt ngày 13-6-1958, do một điệp viên bị bắt đầu hàng đưa địch đến
bắt ông. Dù ông bị bắt, nhưng theo biên niên sử của tình báo quốc phòng thì
"đồng chí Mười Hương giữ được khí tiết, bảo vệ được tất cả những bí mật mà
đồng chí đã biết về Nha Liên lạc, Ban Nghiên cứu Xứ ủy cũng như lực lượng của
Xứ ủy".
Tuy
nhiên, do sự khai báo của người khác, nên sau khi ông bị bắt, một số mạng lưới
do ông tổ chức cũng bị vỡ. Chỉ bảo tồn được những mạng lưới quan trọng nhất,
trong đó có Phạm Ngọc Thảo và Phạm Xuân Ẩn, do hoạt động đơn tuyến không dính
dáng đến các đường dây liên lạc.
Chỉ
trong vòng 1 năm, tổng lực lượng điệp báo bị phá khoảng 100, nếu kể cả cán bộ
và giao thông viên thì con số lên tới 140. Đại bộ phận do đặc vụ miền trung của
Ngô Đình Cẩn bắt hoặc chuyển mục tiêu cho an ninh quân đội bắt những điệp viên
của ta nằm trong quân đội. Cơ quan Ban nghiên cứu Xứ ủy phải chuyển sang
Campuchia, phải mất một thời gian rất lâu, với rất nhiều kỳ công, cơ quan tình
báo miền mới khôi phục và phát triển được lực lượng để góp phần làm xoay chuyển
thời cuộc.
Hệ
thống nhà tù và trại thẩm vấn Việt Nam Cộng Hòa dưới chế độ ông Ngô Đình Diệm
rất tàn khốc, hồi nhỏ tôi cũng rợn tóc gáy khi có nghe những câu chuyện do các
cô chú trong làng từng bị bắt kể lại. Nhưng đó chỉ là một phần của sự thật. Còn
có những sự thật khác nữa, do các nhà tình báo cung cấp "từ trong lòng
địch", nhưng vì những thông tin từ họ không được đưa lên truyền thông, bởi
vậy người dân chỉ biết thông tin qua báo chí, cả báo chí Sài Gòn trước năm 1975
và báo chí cách mạng sau năm 1975, qua những bài học lịch sử trong nhà trường
và qua những câu chuyện kể như tôi đã từng nghe.
Nếu
như đối phương chỉ là những kẻ bất tài và gian ác như truyền thông và sách dạy
lịch sử mô tả, thì chiến thắng của cách mạng đâu có giá trị lớn lao?
Trước
đây có tài liệu viết, nguyên Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương bị chính
quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở khu biệt giam Chín Hầm, nơi được coi là địa ngục
trần gian ở Huế. Người ta bảo ông bị các cai ngục của Ngô Đình Cẩn tra tấn vô
cùng man rợ. Trong lần gặp ông để viết về Phạm Xuân Ẩn và Phạm Ngọc Thảo, tôi
hỏi ông có chuyện đó không, ông trả lời là ông có bị giam ở Huế nhưng bị tra tấn thì không.
Ông
Mười Hương kể, trong thời gian ông bị giam, Ngô Đình Nhu có đến gặp ông. Cuộc
gặp này có mặt Ngô Đình Cẩn. Theo ông Mười Hương thì vừa gặp ông, Ngô Đình Nhu
nói ngay : "Cộng sản các anh ác lắm. Họ Ngô của
tôi suýt nữa thì tuyệt tự…". Ông Mười Hương nói : "Nhưng cụ Hồ
đã không làm khó cho ông Ngô Đình Diệm…". Ngô Đình Cẩn nói chen vào :
"Đúng rồi, cấp trên của các anh thì rất tốt, làm bậy chỉ có cấp dưới
thôi". Ngô Đình Nhu cũng tán thành với ý kiến của Ngô Đình Cẩn.
3/ Độc kế của Ngô Đình Cẩn không áp
dụng được với Trần Quốc Hương
Mục
đích cuộc gặp tại Chín Hầm là nhằm đấu trí để biết người biết ta thôi, không hề
có chuyện thuyết phục "quy hàng", vì cả ông Nhu và ông Cẩn đều biết
rõ ông Mười Hương là ai, tư cách như thế nào.
Nhưng
vì cuộc gặp không mong muốn đó mà sau này ông Mười Hương đã bị một số đồng chí
của mình làm khó dễ. Có người còn bảo "nó gặp ông để làm gì, để tuyên
truyền cách mạng cho ông à ?". Nhờ các đồng chí cấp trên cao nhất hiểu
được sự quang minh chính đại của ông nên ông không bị làm sao, mới có thể lên
làm tới chức Bí thư Trung ương Đảng. Mặc dù tất cả các tài liệu của địch cũng
như các tài liệu tình báo của ta đều khẳng định ông kiên trung bất khuất, nhưng
phải có ông Lê Đức Thọ đứng ra bảo vệ tư cách cho ông, nên ông mới bình an vô
sự.
Tướng
Phạm Xuân Ẩn từng nói với tôi, trong mấy anh em ông Diệm thì ông Cẩn là người
giỏi nhất, nếu ông Diệm ông Nhu mà nghe lời ông Cẩn thì chế độ ông Diệm đã
không sụp đổ.
Việc
phá vỡ mạng lưới tình báo của ta trong những năm 1957-1958 cũng chứng tỏ Ngô
Đình Cẩn tài giỏi như thế nào. Trong nhà tù của Ngô Đình Cẩn tất nhiên là có
tra tấn, nhưng không đến mức như sách báo mô tả. Ông Ẩn nói phần lớn cán bộ cách mạng bị bắt đều được Ngô Đình Cẩn thả
ra. Đó là thủ đoạn đánh phá cách mạng hữu hiệu vô song, bởi vì một cán
bộ bị bắt được thả thì không những khiến cho tổ chức các mạng không tin vào
người cán bộ đó mà cả đường dây của người cán bộ cũng bị chính cách mạng vô
hiệu hóa.
Thực
tế cho thấy, những cán bộ bị bắt mà vô cớ được thả ra không thể chứng minh với
tổ chức vì sao mình được thả và phần lớn không được tin dùng nếu không có người
bảo lãnh. Nhưng đối với ông Mười Hương thì anh em ông Diệm không thể thả được,
thả ông là thả hổ về rừng.
Phải
đến sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ vào cuối năm 1963, lợi dụng tình hình
rối ren trên chính trường miền nam, nội bộ chế độ bị phân hóa với những mâu
thuẫn sâu sắc, một loạt nhân sự trong cơ quan mật vụ bị thay thế, Cục Tình báo
trung ương cùng với cơ quan tình báo miền mới tìm cách vận động, lo lót tiền
bạc để ông Mười Hương và 16 cán bộ điệp báo khác được chính quyền Sài Gòn trả
tự do.
Đến
ngày 18-5-1964, ông Mười Hương được thả. Ông vẫn ở lại Sài Gòn để gặp một số
đầu mối quan trọng, dặn dò và thống nhất các quy ước móc nối với tổ chức, đến
tháng 7 năm đó ông mới ra vùng giải phóng. Khi chính quyền Sài Gòn phát hiện
thả ông là thả nhầm, liền tổ chức truy bắt lại thì ông đã ra được An toàn khu
rồi. Năm 1965 ông ra Bắc chữa bệnh, sau đó về công tác tại Bộ Công an. Năm
1969, ông mới vào Nam tham gia lãnh đạo an ninh miền và từ năm 1972 làm Thường
vụ Khu ủy Sài Gòn-Gia định.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo (kính đen) trong ngày ông cùng Lâm Văn Phát cầm đầu đảo chánh ngày 19-2-1965. |
4/ Nước mắt ông Mười Hương và
« Ván bài lật ngửa » của nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo
Trong
những nhà tình báo do ông Mười Hương tổ chức hoạt động từ đầu, có lẽ ông thương
nhất là Phạm Ngọc Thảo. Trong những lần nói chuyện với tôi, khi nhắc đến Phạm
Ngọc Thảo ông đều khóc nức nở như một đứa trẻ.
Ông
bảo khi phim "Ván bài lật ngửa" được chiếu, ông gọi điện cho ông Trần
Độ (lúc đó là là Trường ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương) đề nghị không chiếu
phim đó. Vì Phạm Ngọc Thảo chính là nguyên mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân
trong phim, mà vợ con ông Thảo thì đang ở Mỹ,
ông sợ người Mỹ làm khó dễ vợ con ông Thảo khi biết ông Thảo là người của cách
mạng. Đó cũng là lý do ông Thảo chậm được phong anh hùng và thừa nhận công
khai.
Phạm
Ngọc Thảo là một trường hợp rất đặc biệt trong hoạt động tình báo. Ông Thảo
không phải là điệp viên cung cấp tin tức hay hoạt động phản gián, được Bí thư
Xứ ủy Lê Duẩn trực tiếp giao nhiệm vụ ở lại vào Sài Gòn hoạt động nhằm
"phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước".
Trước
khi ra Bắc, ông Lê Duẩn giới thiệu ông Thảo với ông Mai Chí Thọ, người phụ
trách an ninh tình báo Nam bộ lúc đó để yêu cầu sắp xếp bố trí đưa ông Thảo vào
Sài Gòn hoạt động. Do ông Mai Chí Thọ là nhà lãnh đạo có nhiều người biết, nên
ông Thọ bàn giao ông Thảo cho ông Mười Hương.
Phạm
Ngọc Thảo lúc đó đã là cán bộ cao cấp của kháng chiến, từng là Trưởng phòng Mật
vụ Nam bộ, tất nhiên không phải là một "học trò" do ông Mười Hương
dẫn dắt. Ông Hương là người "chỉ huy" ông Thảo nhưng chỉ truyền đạt
đường hướng, thống nhất quan điểm, phương thức, nguyên tắc hoạt động và giữ
liên lạc khi cần thiết, còn mọi hoạt động đều do ông Thảo tự định đoạt. Giữa họ
đã nhanh chóng tâm đầu ý hợp.
Ông
Mười Hương và Phạm Ngọc Thảo đều thống nhất với nhau: Nếu không thừa nhận anh
em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo
cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có
tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì
Phạm Ngọc Thảo khó mà dám "ngửa bài".
Ông
Mười Hương cho rằng, thực tế Ngô Đình Diệm luôn mơ ước có những trí thức yêu
nước có tầm cỡ bên cạnh mình, như cụ Hồ có những người như ông Hoàng Minh Giám
bên cạnh. Cần biết Ngô Đình Diệm nổi tiếng chống cộng, nhưng Ngô Đình Diệm
trong thâm tâm bao giờ cũng nể phục cụ Hồ và chưa bao giờ dám xúc phạm đến cụ
Hồ.
Sau
khi thống nhất quan điểm với ông Mười Hương, Phạm Ngọc Thảo không giấu cái lý
lịch kháng chiến ai cũng biết của ông. Nhưng ông không "hồi chánh" để
"trở về với chính nghĩa quốc gia" như một số người, vì làm như vậy là
biến mình thành một "thây ma", là tự vô hiệu hóa vai trò của mình.
Ngược
lại, ông không những chủ động công khai cái lý lịch kháng chiến đó mà còn công
khai tự hào về quãng đường mình đã theo Việt Minh chống Pháp. Để tiếp cận với
gia đình họ Ngô, nguồn gốc trí thức Công giáo đã đành là một lợi thế, nhưng
chưa đủ. Ông đã dùng "ván bài lật ngửa" - khôn ngoan biến cái lý lịch
kháng chiến thành một lợi thế thứ hai, lợi hại hơn. Và Phạm Ngọc Thảo đã
"tàng hình" bằng việc công khai tự hào về cái lý lịch kháng chiến của
mình.
Thực
tế cho thấy nhận định của ông Mười Hương và ông Phạm Ngọc Thảo là đúng. Bởi
vậy, khi làm Tỉnh trưởng Bến Tre, ông Thảo đã thả 2.000 tù chính trị và tuyên
bố đây là chính sách thân dân của Ngô Tổng thống. Cơ quan an ninh của ông Diệm
báo lên ông rằng Phạm Ngọc Thảo chính là Việt cộng mới có hành động như vậy,
nhưng ông Diệm không những không nghe mà còn khen ngợi ông Thảo, bảo các tỉnh
nên học tập và làm theo ông Thảo. Sự kiện này do cơ quan tình báo miền ghi lại.
Nếu như ông Thảo không tin ông Diệm tán thành hành động của mình thì ông đã
không dám làm như vậy, và nếu như ông nhận định sai thì ông đã chết từ lúc đó
rồi.
Ông
Mười Hương và ông Phạm Ngọc Thảo đã đánh giá đúng tầm cỡ của đối thủ, nếu đánh
giá thấp thì các nhà tình báo của ta không thể chui sâu trèo cao vào cơ quan
đầu não của chính quyền Sài Gòn được.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo (kính đen) trong ngày ông cùng Lâm Văn Phát cầm đầu đảo chánh ngày 19-2-1965. |
5/ « Quang minh chính
đại » : Chỉ báo cáo sự thật, không báo cáo theo khẩu vị của cấp trên
Là
một nhà cách mạng chuyên nghiệp, ông Mười Hương hiểu hơn ai hết tầm quan trọng
của việc tranh thủ sự ủng hộ của các giáo sĩ và đồng bào theo đạo Công giáo
trong sự nghiệp đoàn kết chống ngoại xâm. Điều này ông đã học từ Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi trực tiếp chứng kiến hành động của cụ Hồ đối với đạo Công giáo khi
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đức cha Lê Hữu Từ là vị giám mục
chống cộng khét tiếng ở Bùi Chu-Phát Diệm, nhưng khi ông được Giáo hoàng Pio
XII (cũng là vị giáo hoàng chống cộng rất mạnh) tấn phong Giám mục vào tháng
6-1945, vào lễ tấn phong tháng 10-1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
cử phái đoàn gồm ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và cựu hoàng Bảo Đại đến dự
lễ và chúc mừng, đồng thời gửi thư chúc mừng của cụ Hồ đến giám mục Lê Hữu Từ.
Ông
Mười Hương kể, vào tháng 2-1946, cụ Hồ đã đích thân đến Tòa giám mục mời đức
cha Từ làm "cố vấn tối cao Chính phủ". Đức cha Từ nhận lời và trở
thành một trong hai người giữ chức vụ này trong Chính phủ lâm thời, người kia
là cựu hoàng Bảo Đại.
Khi
bước chân vào cổng Tòa Giám mục, cụ Hồ đã nhìn thấy Bí thư huyện ủy Kim Sơn bị
tự vệ của giáo phận bắt mang ra đánh chết ngay trước mặt nhằm "thị
uy" cụ Hồ. Cụ Hồ chỉ khựng lại một lát rồi đi tiếp vào Tòa giám mục. Ông
Mười Hương nói, khi về có nhiều người bức xúc, nhưng cụ Hồ nói, các chú tưởng
tôi không đau sao, tôi đau lắm chứ, nhưng không thể không mời Lê Hữu Từ, vì
dưới ông ta là hàng triệu giáo dân, không mời ông ta thì rất khó thuyết phục
đồng bào theo đạo Công giáo tham gia cứu quốc và kiến quốc.
Khi
hoạt động tình báo ở miền Nam, ông Mười Hương đã tận dụng triệt để vai trò của
của các giáo sĩ đạo Công giáo để che chở, bảo vệ các nhà tình báo của mình,
điển hình là nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ.
Những
nhà tình báo này không lợi dụng đạo Công giáo để phá đạo hay gây hại cho đạo,
họ thuyết phục các giáo sĩ bằng sự thành tâm đối với đạo và bằng cuộc đời chính
trực nhân nghĩa của mình.
Không
phải ngẫu nhiên mà sau khi Phạm Ngọc Thảo bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sát
hại, các vị linh mục, giám mục vẫn bảo vệ đến cùng tư cách chính trực của ông.
Theo tôi được biết thì ngay cả khi biết Phạm Ngọc Thảo là người của phía bên
kia, các vị giáo sĩ yêu mến ông vẫn không hề thất vọng về ông.
Điều
trớ trêu là, nếu như Nguyễn Văn Thiệu biết chắc Phạm
Ngọc Thảo là "Việt cộng" thì ông Thảo có thể không chết, vì nhiều cán
bộ cấp cao bị bắt và bị đày ra Côn đảo chứ có bị giết đâu. Do không tin
Phạm Ngọc Thảo là "Việt cộng" nên khi thấy ông Thảo được hàng giáo sĩ
cao cấp hậu thuẫn, Nguyễn Văn Thiệu mới thấy ông Thảo là một đối thủ chính trị
có thế lực đáng gờm, phải giết đi để trừ hậu họa.
Đọc
lại những tài liệu về lịch sử ngành tình báo kháng chiến tôi thấy một chi tiết
rất thú vị. Tại hội nghị cán bộ tình báo vào tháng 6 năm 1951, do Nha Liên lạc
tổ chức, lúc đó ông Mười Hương là Phó Giám đốc Nha này, có nhấn mạnh một vấn đề
có tính nguyên tắc: Trong hoạt động nghiệp vụ tình báo, không lấy tiền bạc,
danh vị hay lợi lộc làm thủ đoạn mua chuộc, không kích động tư tưởng dân tộc
hẹp hòi và anh hùng cá nhân, không sử dụng mỹ nhân kế. Tư tưởng quang minh
chính đại đó thấm nhuần trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của ông Mười Hương và
các nhà tình báo anh hùng của nước ta.
Các
nhà tình báo chiến lược anh hùng của chúng ta ai cũng quang minh chính đại, họ
chỉ báo cáo đúng sự thật, không ai báo cáo theo khẩu vị của cấp trên. Họ không
màng danh lợi địa vị nên không ai sợ sau khi hòa bình sẽ bị đồng chí mình soi
mói gây bất lợi cho con đường tiến thân. Và họ thật may mắn khi hoạt động trong
một thời kỳ mà cấp trên của họ cũng quang minh chính đại. Riêng ông Mười Hương,
dù sau khi hòa bình ông giữ nhiều trọng trách, cao nhất là Bí thư Trung ương
Đảng, nhưng ông cũng không màng danh lợi, ông coi chức vụ địa vị nhẹ tựa lông
hồng.
HOÀNG HẢI VÂN
Tựa
gốc : « Tầm vóc Trần Quốc Hương, người chỉ huy của những nhà tình báo
huyền thoại »
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.