Cộng đồng người Việt tị nạn biểu lộ lòng tri ân trong tang lễ cố thủ tướng Úc Malcolm Fraser. Ảnh aihuubienhoa.com |
Nguyễn
Quang Duy: Bạn
đọc thân mến, Đây là bài đầu tiên trong loạt bài “45 năm Người Việt Tự Do tại Melbourne: Thử Thách và Thành Tựu”,
xin gởi đến quý bạn đọc. Chúng tôi có lược dịch qua Anh ngữ nếu quý vị
muốn có xin liên lạc qua email này. Chúng
tôi cố gắng thu nhặt thông tin để nhìn lại sự phát triển cộng đồng 45 năm qua.
Chúng tôi chủ trương không đưa những thông tin sai sự thật nên nếu bạn đọc có
thêm thông tin, hay thông tin khác với bằng chứng rõ ràng xin chia sẻ để chúng
tôi có thể hiệu đính bài viết. Thân
mến.
Ở
thời điểm 30/4/1975 chỉ có trên 1,000 người Việt tại Úc, gồm những phụ nữ lập
gia đình với người Úc, sinh viên du học ở lại Úc, sinh viên đang du học, viên
chức đang làm việc hay tu nghiệp, tu sĩ Công giáo tu học và trẻ mồ côi sang Úc
vào tháng 4/1975.
Trừ
các trẻ mồ côi chưa hiểu biết, đa số đều lo lắng cho gia đình bị kẹt lại ở Việt
Nam. Các sinh viên đang theo học và viên chức miền Nam còn nhận được thư của
Chính phủ Lao Động Gough Whitlam yêu cầu thu xếp hồi hương.
Những
người đến Úc đầu tiên
Ngay
sau 30/4/1975, Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị chấp nhận người di tản Việt được tạm
cư tại Hong Kong, Singapore, Malaysia và “vận động” Chính phủ Whitlam nhận một
số người theo diện nhân đạo.
Ngày
20/6/1975, 201 người từ Hong Kong đến định cư tại Sydney và ngày 9/8/1975, 323
người từ Malaysia và Singapore đến Brisbane theo diện nhân đạo. Chính phủ
Whitlam còn nhận 224 người Việt theo diện đoàn tụ gia đình, tôn giáo và di dân,
nâng tổng số người đến Úc trong năm 1975 lên đến 748 người.
Từ
đảo Guam đến Melbourne có gia đình Giáo sư Nguyễn Ngọc Truyền gồm chừng 40
người theo diện đoàn tụ gia đình. Từ Guam theo diện di dân có Điêu khắc gia Lê
Thành Nhơn cùng vợ và 4 con nhỏ vào tháng 9/1975. Từ Nhật đến Melbourne, có gia
đình Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Nhật, gồm 7
người vào giữa tháng 7/1975. Ông Đan phải ký giấy hứa khi đến Úc “không được
làm chính trị”.
“Không
được làm chính trị”
Ngày
21/8/1975, Thủ tướng Whitlam bị đảng Tự Do chất vấn, phải thú nhận có 9 người
Việt bị buộc phải ký giấy hứa khi đến Úc “không được làm chính trị”. Ông
Whitlam lập luận rằng 9 người này đều hoạt động chính trị hay tham dự vào hoạch
định chính sách thời Việt Nam Cộng Hòa, nên họ có thể dùng lãnh thổ Úc làm căn
cứ nhằm lật đổ chính phủ một nước đã được Úc công nhận.
Ông
Whitlam bị đảng đối lập và truyền thông phản đối là trái với truyền thống tự do
chính trị tại Úc, kỳ thị người miền Nam Việt Nam, đòi ông phải hủy bỏ giấy hứa,
phải xin lỗi người tị nạn và xin lỗi công chúng Úc.
Theo
hồi ký Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan, giới chức Úc cho biết ông giữ nhiều chức vụ
quan trọng dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, đều là những chức vụ mang tính cách
chính trị, nên nếu ông muốn đi Úc phải ký giấy hứa.
Ông
Đan nghĩ suốt đời ông chỉ làm công chức cho chính phủ không hề làm chính trị,
nên chấp nhận ký. Còn cựu chủ tịch Thượng Viện, ông Trần Văn Lắm luôn bị dằn
vặt chỉ vì rất muốn đoàn tụ với gia đình ở Úc mà phải ký giấy này. Được biết,
Luật sư Lưu Tường Quang và ngay cả ông Đoàn Bá Cang, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng
Hòa tại Úc trước ngày mất nước, cũng bị buộc phải ký giấy hứa này.
Bỏ
rơi nhân viên Việt
Ngày
20/4/1975, Đại sứ Geoffrey John Price gởi điện tín mật cho Thủ tướng Whitlam
thông báo Sài Gòn đang thất thủ và yêu cầu cho lệnh di tản nhân viên tòa đại
sứ, công dân Úc, cấp sổ thông hành đặc biệt cho nhân viên Việt làm việc cho tòa
đại sứ Úc. Ngày 21/4/1975, Ngoại Trưởng Úc Dân biểu Don Willesee đề nghị ông
Whitlam cấp thẻ thông hành cho 115 người Việt gồm nhân viên làm việc cho tòa
đại sứ Úc và gia đình nhằm tránh cho họ bị cộng sản trả thù.
Nhưng
trái với tinh thần nhân đạo của người Úc, ngày 25/4/1975, Thủ tướng Whitlam ra
lệnh đóng cửa Tòa đại sứ, di tản khỏi miền Nam, không cấp thông hành và bỏ lại
hầu hết những người Việt đã làm việc cho Úc. Theo hồi ký của Bộ trưởng Lao Động
và Di Dân, Clyde Cameron, Thủ Tướng Whitlam tin rằng người Việt tị nạn cộng sản
sẽ trở thành những cử tri chống cộng ủng hộ đảng Tự Do, tương tự như di dân từ
ba nước Bắc Âu, sau Thế chiến Thứ Hai.
Hội
sinh viên Việt Nam hải ngoại
Theo
Radio Australia, từ năm 1963 các sinh viên du học Colombo đã thành lập Hội sinh
viên Việt Nam hải ngoại tại Úc. Năm 1974, Hội có tới 120 hội viên, nhưng sau biến
cố 30/4/1975, những người học xong tản mác khắp nơi, không còn người đi học,
Hội giảm dần hoạt động đến năm 1977 chính thức giải tán. Nhiều sinh viên
Colombo sau này đã trở thành lãnh đạo hay thành viên sáng lập Cộng đồng Người
Việt Tự do.
Hội
Đoàn ủng hộ cộng sản
Ngày
26/2/1973, Chính phủ Whitlam chính thức lập quan hệ ngoại giao với nhà cầm
quyền Hà Nội, một số cựu sinh viên Colombo trở mặt ủng hộ cộng sản, chống lại
chính quyền miền Nam. Theo Radio Australia, ngay sau ngày 30/4/1975, Nguyễn
Phạm Điền, một cựu sinh viên Colombo sang Úc từ năm 1962 rồi trốn lại, đã đứng
ra thành lập Hội Đoàn Kết người Việt ở Úc.
Số
người theo Hội chỉ chừng 20 trong tổng số từ chừng 500 sinh viên và cựu sinh
viên. Một số hội viên khi biết được thân nhân ở Việt Nam bị đi tù, biết sự thật
vi phạm nhân quyền đang xảy ra cho hằng triệu người miền Nam nên đã bỏ Hội. Một
vài người chuyển sang sinh hoạt với Cộng đồng người Việt Tự do.
Năm
1984, Hội Đoàn Kết đổi tên thành Hội Người Việt Nam tại Úc, ông Điền làm hội
trưởng. Những năm đầu thập niên 1990, tôi làm chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự
Do tại Canberra, ông Điền sống tại đây, ngoài ông ra tôi không thấy ai khác
công khai nhận là hội viên Hội này. Năm 1996, Hội chính thức giải tán.
Cũng
sau 30/4/1975, một số khoa bảng thiên tả đã thành lập Hội Úc Việt, hoạt động
chủ yếu trong khuôn viên Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi (Australian National
University) tại Canberra và có phát hành bản tin “Vietnam Today” bằng Anh ngữ
và vài cuộc hội thảo “Vietnam Updated”.
Tôi
biết một số hội viên Hội này, trong đó có Giáo sư David Marr và ông Trần Hạnh,
sinh viên Colombo khóa 1972, cả hai đều là chủ bút của “Vietnam Today”. Mặc dù
là chủ bút của “Vietnam Today”, ông Trần Hạnh biết rất ít thực tế đang xảy ra
tại Việt Nam.
Được
Radio Australia phỏng vấn ông Hạnh tự nhận là mãi đến đầu thập niên 1980, ông
mới biết cha của ông, một sĩ quan cấp tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị tù “cải
tạo”, mẹ ông bị đuổi đi kinh tế mới và các em ông phải ly tán.
Năm
1992, ông Hạnh về Việt Nam khi cha ông vừa ra tù. Ông Hạnh cho tôi biết cha ông
rất buồn vì ở Úc ông theo cộng sản, và rất sợ vì ở Việt Nam ông Hạnh luôn bị
công an cộng sản quấy nhiễu. Nhờ chuyến đi đó ông mới biết được phần nào thực
tế đang xảy ra tại Việt Nam.
Ông
Hạnh khi ấy đang học cao học truyền thông có làm một cuộn phim quay video về
đời sống ở Việt Nam ông cho tôi biết “lén” mang về Úc và được phát trên đài
truyền hình ABC. Ông Hạnh sau làm Trưởng ban Việt Ngữ đài BBC và làm Giám đốc
sản xuất cho Radio Australia.
Cũng
khoảng thời gian đó ông David Marr có cho tôi biết ông vừa từ Việt Nam về. Trước
khi ông bước lên máy bay, tất cả những tài liệu và cả vở ghi chú của ông đều bị
công an cộng sản tịch thu.
Cũng
đầu thập niên 1990, khi Hà Nội bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Mỹ, nhiều
hội viên Hội Úc Việt khi đó “vỡ mộng” biết được cộng sản Việt Nam phản bội niềm
tin của họ, Hội quyết định giải tán.
Tị
nạn chính trị
Ngày
11/11/1975, Toàn quyền John Kerr sa thải Thủ tướng Whitlam, và chọn lãnh tụ đối
lập Malcolm Fraser làm thủ tướng xử lý thường vụ sửa soạn bầu cử. Ngày
13/12/1975, Liên đảng Tự Do – Quốc Gia thắng cử, Thủ tướng Malcolm Fraser đảo
ngược chính sách của Chính phủ Whitlam, cho phép các sinh viên được định cư và
đón nhận người Việt tị nạn chính trị. Vào đầu năm 1976, Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan
nhận được thư của Bộ Trưởng Di trú và Sắc tộc sự vụ, Michael MacKellar, thông
báo hủy bỏ giao ước “không được làm chính trị”.
Nhưng
dù thất cử, ông Whitlam tiếp tục giữ vai trò thủ lãnh đối lập với đường lối
cứng rắn, quyết ngăn cản người Việt tị nạn cộng sản được định cư tại Úc.
Đến
ngày 10/12/1977 khi Thủ tướng Fraser thắng cử nhiệm kỳ 2, chính sách nhận người
Việt tị nạn mới phần nào thay đổi. Mãi đến 20-21/7/1979, sau Hội nghị Geneva về
người tị nạn Đông Dương, Chính phủ Fraser đồng ý Úc sẽ nhận thêm mỗi năm hằng
chục ngàn người tị nạn.
Giữa
năm 1982, Chính phủ Fraser đạt thỏa thuận với nhà cầm quyền Hà Nội để người
Việt tị nạn được bảo lãnh gia đình còn kẹt lại ở Việt Nam.
Theo
số thống kê vào tháng 6/1976, có 2,427 người Việt trên toàn nước Úc. Số người
Việt tại Úc tăng đến 60,000 người vào cuối năm 1982 và 220,000 người vào năm
2016. Nếu tính luôn thế hệ tiếp nối sinh ra tại Úc số người Việt tự do có thể
đã lên đến trên 300,000 người.
Hai
vị ân nhân
Nữ
hoàng Elizabeth Đệ Nhị và Thủ tướng Malcolm Fraser quả đã khai sinh cộng đồng
người Việt tự do.
Trong
tang lễ ông Fraser ngày 27/3/2015, tôi và hằng trăm người Việt khác đã “biểu
tình” trước cửa nhà thờ Scots' với ba biểu ngữ lớn biểu lộ tấm lòng tri ân của
người Việt tự do dành cho ông. Ông Nguyễn Thế Phong, cựu chủ tịch Cộng đồng,
mặc áo dài đen, đội khăn đóng, tay ôm bức chân dung của ông Fraser, hai bên là
hai lá cờ Úc Việt (cờ vàng ba sọc đỏ), thương tiếc sự ra đi của vị ân nhân đáng
kính nhất của người Việt tự do.
Cuộc
biểu tình được truyền thông chú ý và đưa tin: người Việt không quên ơn ông
Fraser, người Việt không quên ơn nước Úc đã mở rộng bàn tay cưu mang đoàn người
trốn chạy cộng sản tìm tự do trên đất Úc.
Người
Việt tự do
Đảng
Tự Do trước đây đã sát cánh với miền Nam chống lại cộng sản, sau 30/4/1975 lại
đề ra những chính sách đón nhận người Việt tị nạn cộng sản và gia đình còn kẹt
lại ở Việt Nam.
Theo
Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hưng, ngày 10/2/1976, sau khi
Thủ tướng Malcolm Fraser quyết định nhận người tị nạn chính trị, hai ông và một
số sinh viên thành lập Hội Ái Hữu Việt Kiều Tự Do, dự tính giúp chính quyền
tiểu bang Victoria tiếp đón đồng bào sẽ qua Úc định cư. Hội Ái Hữu Việt Kiều Tự
Do chính là tiền thân của Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria.
Trải
44 năm, từ ngày thành lập 10/2/1976, các Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự
Do tại Victoria đều luôn giữ đường lối độc lập với các đảng chính trị tại Úc
nhưng trong tận đáy lòng không quên ơn Thủ Tướng Malcolm Fraser, một đặc điểm
đáng ghi nhận của Cộng Đồng tại Victoria nói riêng và tại Úc châu nói chung.
Đây
là bài viết đầu tiên trong loạt bài 45 năm nhìn lại những thử thách từ bước ban
đầu thành lập cho đến ngày nay (1975-2020), và duyệt lại nỗ lực trẻ trung hóa
thành phần lãnh đạo, hầu tiếp nối duy trì truyền thống của người Việt tự do.
Mong nhận những thông tin và ý kiến của bạn đọc để hoàn chỉnh loạt bài.
NGUYỄN
QUANG DUY (Tác giả gởi blog Thụy My)
Melbourne,
Úc Đại Lợi, 15.02.2020
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.