Công nhân làm việc tại một nhà máy dệt ở Hà Nam, 07/10/2015. |
Trong cuộc họp báo hôm nay 09/10/2015, ông Trần
Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ Công thương đồng thời là trưởng đoàn đàm phán
TPP (Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương) cho biết, sau
quá trình phê duyệt từ 18 đến 24 tháng hiệp định này sẽ có hiệu lực.
Trả lời RFI Việt ngữ,
ông Phạm Xuân Hồng, chủ tịch Hội Dệt may Thành phố Hồ Chí Minh phân tích
thêm về tác động của TPP trong lãnh vực này.
RFI: Thân chào ông Phạm Xuân
Hồng. TPP vừa hoàn tất đàm phán - tất nhiên còn phải chờ Quốc hội 12
nước phê duyệt - nhưng riêng đối với ngành dệt may, theo ông triển vọng
sắp tới sẽ như thế nào?
Ông Phạm Xuân Hồng: Vừa rồi các
doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam rất mong đợi thông qua hiệp
định TPP. Phải nói rằng cũng hơi bất ngờ vì sự kết thúc đàm phán cuối
cùng đến ngoài mong đợi. Người ta nghĩ rằng còn lâu, nhưng 12 nước đã
ngồi lại và kết thúc tương đối sớm.
Dĩ nhiên ai cũng biết là từ kết thúc đàm phán cuối cùng đến khi có
hiệu lực vẫn còn xa – như các nguyên thủ quốc gia nói rằng phải ít nhất
18 tháng sau thì Quốc hội các nước mới có thể phê chuẩn. Tuy nhiên nó sẽ
tác động rất lớn đến dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Như chúng ta biết, nếu TPP có hiệu lực thì thuế nhập khẩu vào Mỹ và
các nước trong TPP sẽ giảm xuống bằng 0. Đây là một lợi thế rất lớn.
Trước đây thuế nhập khẩu từ 17% trở lên, bây giờ nếu có hiệu lực sẽ
xuống còn 0%. Rõ ràng đây là thuận lợi rất lớn, đòi hỏi những quy tắc,
điều kiện, tiêu chuẩn khắt khe chứ không đơn giản là tất cả mọi sản phẩm
nhập vào Mỹ hay các nước thành viên TPP đều hạ xuống được bằng 0.
Thí dụ, khó nhất hiện nay là xuất xứ nguyên phụ liệu phải từ Việt Nam
hoặc là một trong các nước TPP thì mới được hưởng lợi thế đó. Hiện nay
Việt Nam chỉ đáp ứng được trên dưới 20%. Như vậy 80% còn lại tính toán
sao đây?
Dĩ nhiên các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có bài toán theo thời
gian. Thí dụ mở rộng mối quan hệ với các nhà xuất khẩu nguyên phụ liệu
từ các nước TPP – nhưng chắc không nhiều. Rồi hiện nay Nhà nước cũng chủ
trương phát triển công nghiệp hỗ trợ - tức sản xuất nguyên phụ liệu,
kêu gọi đầu tư nước ngoài hợp tác với các doanh nghiệp Việt để đẩy nhanh
tốc độ phát triển nguồn cung cấp nguyên phụ liệu từ Việt Nam.
Theo tôi có thể trong ba năm, năm năm tới, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ có thể khai thác lợi thế đó mạnh hơn và nhiều hơn trong tương lai.
Bên cạnh đó dĩ nhiên các doanh nghiệp đang lo là thị trường nội địa sẽ
phải cạnh tranh rất dữ với các loại hàng hiệu nhập từ TPP vào đây,
v.v…thì cũng là một thách thức.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng hiểu rằng không thể nào mình hưởng lợi
không mà không gặp thử thách, không bị thiệt thòi. Nếu mình phấn đấu
vượt qua được thì sẽ khai thác lợi thế được nhiều hơn. Trước mắt là TPP
tác động đến ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam tương đối thuận lợi,
như tôi đã trình bày.
RFI: Được biết nguyên phụ
liệu hiện nay đa số từ Trung Quốc, nếu muốn chủ động được có lẽ phải lo
từ bây giờ. Như ông nói lúc nãy, trong nước chắc cũng đã có chuẩn bị
việc đầu tư sản xuất nguyên vật liệu cho ngành dệt may rồi?
Không phải đến bây giờ các doanh nghiệp Việt hay chính phủ Việt Nam
mới chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị trong thời gian vừa qua theo tôi đánh
giá là hơi chậm, sự thúc đẩy chưa mạnh lắm. Bây giờ vòng đàm phán cuối
cùng đã kết thúc rồi, tạo ra một áp lực cho các doanh nghiệp Việt Nam,
cho Nhà nước Việt Nam. Tính toán bài toán sản xuất nguyên phụ liệu nhanh
hơn, mạnh hơn và hiệu quả, thì tôi nghĩ rằng thời gian sẽ tương đối
ngắn hơn.
Nếu nhận thức được sớm thì có lẽ cho đến giờ chúng ta không ở khoảng
20-25% đâu, mà có thể đạt được hơn nữa. Nhưng bây giờ coi như là áp lực
trực tiếp rồi ! Tôi hy vọng rằng với sự cố gắng của các doanh nghiệp,
rồi sự hỗ trợ của Nhà nước kéo đầu tư của nước ngoài vào đây hợp tác sản
xuất nguyên phụ liệu, sẽ giải được bài toán đó tốt hơn.
RFI: Còn việc làm hàng FOB ở Việt Nam, tức theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, chắc bây giờ đã phát triển hơn trước?
Lâu nay người ta nói thế mạnh của Việt Nam phần lớn là gia công.
Trước đây thì đúng, nhưng xu thế từ hai, ba năm nay đã chuyển dần qua
FOB. FOB cũng có nhiều loại, thí dụ mua nguyên liệu do khách hàng chỉ
định cũng có, hoặc các doanh nghiệp tự đi tìm kiếm nguồn nguyên liệu
trong nước hoặc ở các nước Đông Nam Á chẳng hạn, để có thể chủ động hơn
trong việc sản xuất ra sản phẩm, thì đã có nhiều tiến bộ rồi.
Và chính con đường đó là con đường phải đi, chứ không thể tiếp tục
gia công được. Chỉ làm công thì rõ ràng không thể nào có hiệu quả, không
thể nào sống êm ả với việc gia công được. Cho nên xu hướng làm FOB rồi
ODM, tức là tự sáng tác các mẫu mã, design để chào cho khách hàng, hiện
nay xu thế đó đang mạnh hơn trước nhiều lắm. Trước nay có lẽ quen với
việc nhận gia công cho khỏe, nhưng bây giờ không cho phép nữa.
Sự cạnh tranh đang dữ dội, kể cả cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong nước cũng vậy. Nếu mình cứ làm gia công thì rõ ràng là khó, trong
môi trường cạnh tranh hiện nay. Cho nên bắt buộc các doanh nghiệp phải
tìm mọi cách cải thiện phương thức kinh doanh bằng FOB. Và theo tôi đánh
giá, bây giờ nâng lên cũng tương đối tốt.
RFI: Trước triển vọng từ
TPP, các nhà đầu tư các nước không thuộc khối này có đón đầu bằng cách
đầu tư vào Việt Nam, hay có xu hướng chuyển dịch sản xuất qua Việt Nam
chưa, thưa ông ?
Có lẽ trong vài năm gần đây và hiện nay, tình hình chuyển dịch đầu tư
vào Việt Nam để sản xuất nguyên phụ liệu tương đối rầm rộ hơn. Vì kinh
doanh ở đâu cũng vậy, chỗ nào có đầu ra, chỗ nào có lợi thế thì chúng ta
phải tập trung vào đó. Các công ty, tập đoàn nước ngoài có lẽ cũng làm
theo xu hướng đó.
Việt Nam vào TPP, muốn khai thác lợi thế thì người ta đầu tư vào đây
để có đầu ra, mà đầu ra tương đối thuận lợi. Cho nên nó làm nóng môi
trường đầu tư lên. Đó là điều cũng phù hợp với quy luật thôi. Hiện nay
sự hợp tác giữa các công ty nước ngoài với các doanh nghiệp Việt Nam
tương đối là tốt và mạnh mẽ. Hy vọng từ đầu tư của Việt Nam và nước
ngoài phối hợp với nhau thì việc cung ứng nguồn nguyên liệu sẽ tăng
nhanh hơn.
RFI: Thưa ông, hiện giờ tình hình đã « nóng » chưa hay mới được « hâm nóng » lên một chút thôi ?
Đã « nóng » rồi, nhưng mà để « sôi » thì còn cần
thời gian. Thí dụ đã có nhiều dự án triển khai, nhưng từ triển khai cho
đến ra thành phẩm, và sau đó có đủ sản lượng, chất lượng để cung ứng cho
xuất khẩu, còn là những bước thời gian. Nhưng có thể nói các dự án đã
rải rác, từ Nam ra Bắc đều có những dự án đầu tư tương đối lớn, có quy
hoạch, và có những dự án đã khởi động tốt. Tôi tin rằng với độ nóng, có
lẽ thời gian sẽ rút ngắn hơn.
RFI: Lực lượng lao động
trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay như thế nào, và trong dự định sắp
tới có thu dụng thêm nhiều nhân công?
Cũng có nhiều ý kiến cho là lượng lao động sẽ tăng lên nhiều. Hiện
nay tổng số lao động dệt may của Việt Nam khoảng hai triệu rưỡi. Có
người cho rằng đến năm 2025 lượng lao động sẽ tăng lên gấp đôi. Nhưng
theo tôi có lẽ là không tăng nhiều vậy đâu - vì lao động có giới hạn, ở
Việt Nam cũng chủ trương mỗi gia đình chỉ sinh hai con thôi.
Cho nên số lao động trong tương lai có lẽ cũng không tăng lên ào ạt.
Các ngành khác cũng tăng, thế thì lao động ở đâu ? Tôi nghĩ là sẽ tăng,
nhưng không phải tăng gấp đôi. Vấn đề là đầu tư thiết bị, cải tiến quản
lý, nâng cấp lên thì năng suất lao động sẽ tăng lên. Cộng cả việc tăng
số lượng lao động và năng suất lao động, thì đến năm 2025 có thể kim
ngạch xuất khẩu sẽ tăng gấp đôi, thí dụ vậy, chứ không nhất thiết là
tăng lao động.
Tôi thì lo là số lao động có giới hạn, và các ngành khác phát triển
cũng cần lao động, làm sao có thể tập trung hết vào ngành dệt may. Nhưng
mà ngành dệt may phải đầu tư thiết bị. Một máy mới có thể bằng hai cái
máy cũ, hiệu quả của nó cộng với cải tiến cách quản lý thì năng suất sẽ
tăng lên, từ đó tăng kim ngạch xuất khẩu.
RFI: Có lẽ cần chú trọng đầu tư vào giá trị tăng thêm trong sản phẩm như tỉ lệ sáng tạo chẳng hạn…
Đúng. Nếu làm FOB (mua nguyên liệu bán thành phẩm), ODM (tự thiết kế,
sản xuất và bán sản phẩm), design…tất cả những cái đó tạo ra giá trị
của sản phẩm để khi xuất khẩu có giá cao hơn, chứ không chỉ có một chỉ
tiêu là số lượng sản phẩm đâu. Thí dụ năm nay mình sản xuất một triệu
sản phẩm, thì năm, mười năm tới cũng chưa nhất thiết phải sản xuất hai
triệu mà 1,8 triệu nhưng giá trị cao hơn. Trong tính toán phương thức
kinh doanh cũng phải tính nhiều yếu tố chứ không chỉ tăng lượng người,
tăng số lượng sản phẩm.
tags: Việt Nam - Kinh tế - Phỏng vấn - Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP - Dệt may - Hiệp định - Tự do mậu dịch
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20151009-det-may-viet-nam-bat-dau-%C2%AB-nong-%C2%BB-len-sau-tpp
Bài viết liên quan:
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.