Cuộc họp Weyand. (Hình: Nguyễn Tiến Hưng cung cấp) |
(Người Việt 29/04/2019) Trời đã về khuya, tôi nóng lòng ngồi chờ Eric. Eric
Von Marbod (Đệ nhất Phó Phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ) là một thành viên của
phái đoàn Tướng Fred Weyand do Tổng Thống Gerald Ford gửi sang Sài Gòn để thẩm
định tình hình. Hôm ấy là ngày 28 Tháng Ba, 1975.
Tôi
đã để sẵn trên bàn mấy chai 33 – loại bia ông ưa thích nhất. Vừa tới, ông uống
liên tục hai chai rồi trao đổi với tôi về tình hình tuyệt vọng ở Đà Nẵng vì hết
quân để tiếp viện cho Tướng Ngô Quang Trưởng. “Bây giờ tôi mới thực sự cảm nhận việc Tổng Thống (TT) Thiệu gửi anh đi
thuyết phục ông Schlesinger giúp trang bị thêm hai sư đoàn làm lực lượng trừ
bị.” Đây là ông nhắc lại hai lần chúng tôi gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng James
Schelesinger (ông thầy dạy tôi gần bảy năm tại Đại Học Virginia). Lần nào cũng
nghe ông trả lời là không thể được vì Quốc Hội đã cắt quân viện.
Ngày
31 Tháng Ba, 1975 (chỉ một tháng trước khi sụp đổ) một buổi họp với phái đoàn
Weyand dưới sự chủ tọa của TT Thiệu tại Phòng Tình Hình Dinh Độc Lập vào lúc 5
giờ chiều. Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc và chúng tôi cùng tham dự.
Đây
là buổi họp Việt-Mỹ cuối cùng sau 30 năm người Mỹ dính líu vào Việt Nam.
Mọi
người cố nói chuyện vồn vã để cho đài truyền hình quay phim. Chúng tôi (ngồi
cạnh Đại Tướng Viên) cũng có một nụ cười. Nhưng khi truyền thông vừa ra khỏi
thì bầu không khí nặng nề đã bao trùm: Đà Nẵng vừa bị bỏ ngỏ ngày hôm trước.
Nhiều vấn đề được đề cập nhưng quan trọng nhất là làm sao có được tiếp liệu cho
lực lượng quân đội còn lại sau khi mất Đà Nẵng. Tướng Weyand kết luận: “Chúng tôi sẽ viện trợ theo nhu cầu của VNCH
và sẽ trình bày những nhu cầu này trước Quốc Hội.” Ông Marbod thêm: “Nếu có lệnh thì việc tiếp liệu sẽ khởi sự
ngay vì đã có sẵn ở Okinawa và Đại Hàn.”
Ngày
hôm sau, 1 Tháng Tư, 1975, TT Thiệu chủ tọa một cuộc họp nữa để bàn việc tái tổ
chức một số đơn vị quân đội bị tan rã nếu có được tiếp liệu và việc dùng dự trữ
vàng và đôla để mua tiếp liệu. Về phía dân sự, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi
cùng tham dự.
Qua
hai cuộc họp này và sau những diễn biến và những buổi họp tại Dinh Độc Lập
trong ba tháng đầu năm 1975, chúng tôi thấy những khó khăn về vật chất cũng như
tinh thần không thể vượt qua được của Miền Nam đã bộc lộ rõ ràng.
Hầu
hết nó phản ảnh những khuyết điểm của chiến lược “Việt Nam Hóa” và việc Quốc Hội cúp quân viện quá bất chợt và quá
nhanh.
Mỹ hóa chiến tranh
Trước
hết, tại sao phải Việt Nam hóa? Vì trước đó cuộc chiến đã bị Mỹ hóa.
Trong
cuốn “Việt Nam 1945-1995” (trang 329)
GS Lê Xuân Khoa trích dẫn một bài phỏng vấn của TT Thiệu với tạp chí The New
Republic như sau:
Về
chính trị, “Lý do chính mà Việt Cộng cố
thủ mạnh mẽ được như vậy là vì dân chúng vẫn tin rằng chẳng có gì khác giữa
người Pháp mà họ gọi là thực dân và người Mỹ mà họ gọi là đế quốc.”
Về
quân sự, sau khi đã đem quân vào rồi thì chiến tranh thành ra “Mỹ hóa.” Có hai sai lầm quan trọng:
“Vì quá tin tưởng ở sức mạnh của mình
và coi thường khả năng của quân lực VNCH, Hoa Kỳ không trang bị cho họ vũ khí
hiện đại. Chẳng hạn quân đội Mỹ vào Việt Nam từ Tháng Ba, 1965 nhưng quân đội
Miền Nam chỉ có súng Garrands từ thế Chiến II. Mãi tới Tháng Sáu, 1968 sau Tết
Mậu Thân, Hoa Kỳ mới cung cấp súng M-16 cho binh sĩ VNCH trong khi bộ đội Cộng
sản miền Bắc đã sử dụng loại súng tối tân AK-47 từ mấy năm trước. Hầu hết máy
bay trực thăng rất cần thiết trong các cuộc hành quân đều do phi công Hoa Kỳ
lái và chỉ chịu mệnh lệnh của cấp chỉ huy người Mỹ.”
“Quân đội Hoa Kỳ chỉ quen với chiến
tranh quy ước không thích hợp với những điều kiện chiến đấu chống du kích trong
núi rừng nhiệt đới. Nhưng Hoa Kỳ vẫn tin rằng sẽ thắng bất cứ loại chiến tranh
nào bằng cách sử dụng hỏa lực thật mạnh và thật nhiều.
“Lối đánh trận kiểu nhà giàu này quá
phí phạm, coi thường sinh mạng của dân chúng mà thường không đem lại kết quả
mong đợi. Trái với mục tiêu ‘tranh thủ nhân tâm,’ lối đánh trận này chỉ làm cho
dân chúng có cảm tình với chủ trương “chống Mỹ cứu nước” của Cộng Sản. Đó cũng
là nguyên nhân của nhiều trường hợp bất đồng ý kiến giữa các cố vấn Mỹ và các
cấp chỉ huy người Việt.”
Theo
nhận xét của một vài tướng lãnh, nó lại còn gây nên một tình trạng tâm lý hết
sức bất lợi: đó là làm cho quân đội VNCH quen với cung cách chiến đấu kiểu nhà
giầu.
“Việt
Nam Hóa”
TT Richard Nixon muốn “giải kết vai trò của Mỹ” ở Việt Nam
(De-americanization of the Vietnam War). Bộ trưởng Quốc Phòng Melvin Laird
thuyết minh nên dùng từ “Việt Nam Hóa” (Vietnamization).
Chương trình này đã giúp quân
đội VNCH trở thành hùng mạnh nhất tại Đông Nam Á. Về mặt kinh tế nó cũng giúp
Miền Nam có được những bước tiến vượt kỳ vọng, mặc dù chịu sức ép lớn lao của
lạm phát siêu mã.
Tuy nhiên, về mặt quân sự thì
nó có 5 khuyết điểm:
1- Việt Nam Hóa
kiểu Mỹ
Quân đội đã trở nên hùng
mạnh, nhưng sự hùng mạnh ấy thiếu “tính
cách bền vững” (sustainability). Nó hùng mạnh nếu như tiếp tục có được hỏa
lực và khả năng đi động (fire power and mobility). Đây là hai cấu phần chính
của mô hình chiến đấu của Mỹ – dù trong chiến tranh Việt Nam hay Thế Chiến II
hay Chiến tranh Triều Tiên, hay bây giờ ở Trung Đông.
Về hỏa lực: luôn cần bom đạn,
máy bay khu trục, thiết giáp. Về di động: trực thăng, phi cơ C-130, xăng nhớt.
Cả hai yếu tố hỏa lực và di động đều đòi hỏi phải có sẵn đồ phụ tùng để bảo trì
và sửa chữa.
Nguyên 1,429 tàu chiến của
Hải Quân đã cần tới 64,240 món đồ phụ tùng và dụng cụ sửa chữa, Không quân:
192,000, Lục quân: 127,000.
Từ mùa Thu 1973, giá mọi thứ
tăng lên vùn vụt sau cú sốc dầu lửa Trung Đông. Thế là cả hỏa lực cả di động
tính đều bị giảm mạnh. Đến Hè 1974, khi Quốc Hội Mỹ cúp quân viện thì cả hỏa
lực lẫn khả năng di động hầu như mất luôn. Đại Tướng Cao Văn Viên phải hạn chế
đạn dược, xăng nhớt tối đa.
Có lần chúng tôi đi thăm Sư
Đoàn 1 đóng ở Huế. Tướng Nguyễn Văn Điềm chỉ lên phía đồi núi và nói: “Chúng tôi luôn bị pháo của quân đội Bắc
Việt từ trên đó mà không có khả năng đáp trả.”
Tinh
thần suy sụp
Tình trạng này ép mạnh vào
tinh thần Miền Nam. Đại Tướng Cao Văn Viên và Trung Tướng Đồng Văn Khuyên (phụ
trách tiếp vận) báo cáo: “Đạn tồn kho sẽ
hết vào Tháng Sáu, 1975.” Cá nhân chúng tôi đã từng chứng kiến sự khắc
khoải của TT Thiệu, nhất là khi ông ra lệnh dốc hết dự trữ của Ngân Hàng Quốc
Gia để mua tiếp liệu vì dầu lửa thì đã tìm thấy chắc chắn ở ngoài khơi nhưng
chưa khai thác kịp.
Nói về hỏa lực, phải kể tới
số quân cụ do Hoa Kỳ chuyển giao trong chương trình gọi là Enhance và Enhance
Plus (1972). Truyền thông Mỹ hay nói tới việc đã chuyển cho Miền Nam từng tỉ đôla khí
giới mà vẫn bại trận. Ta hãy nghe Tướng John Murray, tùy viên quốc phòng ở Sài
Gòn viết lại:
“Ai
cũng tưởng lầm về vụ chuyển giao quân cụ cho VNCH. Thật ra đó chỉ là những quân
cụ hư hỏng hoặc cũ kỹ, lỗi thời. Phần lớn là đồ thặng dư, đòi hỏi phải bảo trì
quá nhiều.”
Mỗi khi ông Murray yêu cầu Bộ Quốc
Phòng gửi phụ tùng để bảo trì thì đều bị từ chối: “Miền Nam phải ôm lấy những thứ này như của nợ.”
TT Thiệu ví von sự kiện này
như “tặng tôi một cái xe Cadillac mà
không có được một cái “bougie” để thay thế khi cần thì chiếc Cadillac chỉ là
đống sắt, lại còn phải canh giữ cho khỏi bị mất trộm.”
Tổng Trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng thăm Sư Đoàn I. (Hình: Nguyễn Tiến Hưng cung cấp) |
2- Không chuyển
giao hệ thống tham mưu
Từ 1969, chương trình Việt
Nam Hóa chỉ tập trung chủ yếu vào việc chuyển giao quân cụ, tiếp liệu (như kho
Long Bình), không đặt nặng vấn đề tham mưu và điều hợp chiến trường. Như vậy,
khả năng tham mưu của Bộ Tổng Tham Mưu thật là giới hạn.
Đây có thể cũng là một lý do
mà nhiều khi TT Thiệu chỉ huy trực tiếp từ Dinh Độc Lập (như chúng tôi chứng
kiến trong buổi họp ngày 23 Tháng Ba, 1975 về lệnh bỏ Huế). Ngay từ thời còn là
một sĩ quan, khả năng tham mưu của ông đã được đồng liêu và tướng lãnh Mỹ khen
ngợi. Tuy nhiên cũng vì vậy mà ông đã bị chỉ trích là tập trung quyền lực.
3- Không giúp
Miền Nam có
thêm lực lượng trừ bị
Vấn đề này thì chúng tôi nắm
rất vững vì đã từng nhận chỉ thị cùa TT Thiệu để giúp Đại Tướng Viên “lobby”
phía Mỹ giúp trang bị thêm hai sư đoàn để làm lực lượng trừ bị. Cả thế giới cứ
nói là Miền Nam có trên một triệu quân đội mà bại trận. Trong số một triệu ấy,
chỉ có 13 sư đoàn (khoảng 200,000) là quân đội chính quy. Phần còn lại là Địa
Phương Quân, Nhân dân Tự vệ với trách nhiệm chính là giữ an ninh địa phương.
TT Thiệu thường hay phàn nàn
với chúng tôi “Mình chỉ có hai sư đoàn Dù
và TQLC, phải dùng trực thăng bốc đi hết trận này tới trận khác.”
4- Thời gian
Việt Nam Hóa quá vắn vỏi
Bắt đầu từ Hè 1969 và chấm
dứt cuối 1972: như vậy là chỉ có ba năm rưỡi. Nó lại bị gián đoạn bởi hai trận
chiến: “Lam Sơn 719” đánh sang Lào
(mùa Xuân 1971) và “Mùa Hè Đỏ Lửa”
(Xuân-Thu 1972). Ông Von Marbod ví vấn đề thời gian vắn vỏi như “muốn cho chín người đàn bà đẻ ra một đứa
con trong một tháng.”
5- Việt Nam hóa
trong bối cảnh hòa đàm
Chiến lược giải kết khỏi Việt
Nam dựa vào hai cấu
phần: Việt Nam Hóa và đàm phán với Bắc Việt. TT Nixon cho rằng nó sẽ đi song
hành và hỗ trợ nhau để đem lại hòa bình. Nhưng trong thực tế nó lại đi ngược
với nhau vì Nixon tin vào Việt Nam Hóa, Kissinger không tin – còn thuyết phục
Nixon tại sao ông không tin – và chỉ tập trung vào mật đàm.
Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc
lại một thí dụ về sự đối chọi này: ngày 17 Tháng Chín, 1972 quân đội VNCH lấy
lại được Quảng Trị, tinh thần lãnh đạo Miền Nam lên cao – đó là thành công của
Việt Nam Hóa. Nhưng chỉ ba tuần sau, tinh thần bị rúng động – vì thất bại của
hòa đàm. Tại sao thất bại? Vì trong buổi họp với ông Lê Đức Thọ (8/10/1972) ông
Kissinger đã nhượng bộ điểm chính yếu của bốn năm mật đàm: Mỹ đơn phương rút
quân nội trong hai tháng, quân đội Bắc Việt được đóng lại Miền Nam – và đóng
rải rác khắp nơi giống như những đốm da beo.
Những
ngày cuối cùng
Năm khuyết điểm trên đây đã
cùng một lúc tác động vào chiến trường Miền Nam trong những ngày tháng cuối
cùng, bắt đầu từ trận Phước Long.
*Trận chiến Phước Long
Đêm ngày 13 Tháng Mười Hai,
1974, quân đội Bắc Việt nổ súng tại Phước Long. Lực lượng của VNCH chỉ gồm Địa
Phương Quân, Nghĩa Quân, và 4 trung đội Pháo Binh, tổng cộng khoảng 4,000
người. Dù phải đối đầu với lực lượng áp đảo của Bắc Việt gồm 2 sư đoàn (SĐ 7 và
3 Bộ binh) cùng với các đơn vị pháo, xe tăng, đặc công, và phòng không gộp lại
là đông hơn lực lượng Miền Nam gấp 6 lần, lực lượng trú phòng vẫn chống cự và
kéo dài được gấn 4 tuần – từ 13 Tháng Mười Hai, 1974 cho tới nửa đêm ngày 6
Tháng Giêng, 1975.
Giải pháp “da beo” đã giúp
Miền Bắc có một lợi điểm chiến thuật rất lớn: đó là có thể chọn nơi, chọn ngày
và chọn giờ để tấn công. Khi tấn công thì có thể tập trung quân để ở thế thượng
phong. Đang khi đó, quân đội Miền Nam phải trải ra thật mỏng trên toàn lãnh thổ
và một biên giới gần 700 dặm.
Tại
sao không tái chiếm Phước Long?
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia họp
với Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân Ðoàn III để thẩm định việc tái chiếm
Phước Long. Cuộc họp đi tới kết luận là không thể được vì (1) không còn lực
lượng trừ bị nào và cũng không thể rút đơn vị nào từ những vị trí khác; (2)
không còn phương tiện chuyển quân và chuyển đại pháo.
Chưa bao giờ Miền Nam lại cảm
thấy bất lực như lúc này: không có trừ bị để tăng viện mà nếu rút đơn vị này nọ
để tăng viện thì cũng không có phương tiện để chuyển quân và chở đến cho kịp
thời.
Về thời gian cần thiết để
chuyển quân: muốn đưa sư đoàn Dù từ miền Trung tới thì cần một tuần, và muốn
đưa một sư đoàn của Quân Khu IV tới cũng mất 3 ngày, mà Phước Long cần ngay.
Đúng như Đại Tướng Viên đã trình TT Thiệu (Hè 1974): “Trước đây , trong cuộc tấn công 1972, sư đoàn Dù có thể di chuyển từ
Sài Gòn tới các mặt trận ở Pleiku và Vùng 1 chỉ trong vòng 48 tiếng bằng không
vận mà không gây trở ngại gì. Nhưng bây giờ, cùng một cuộc không vận tương tự,
không quân cần đến 7 ngày và phải trưng dụng tất cả các phương tiện không vận
khác.”
Ngày 6 Tháng Giêng, Phước
Long thất thủ. Trong cuộc chiến kéo dài 20 năm, Phước Long là tỉnh đầu tiên của
Miền Nam bị mất. Phước Long mở đầu cho cuộc tổng tấn công Mùa Xuân 1975 của
quân đội Bắc Việt.
Trong tất cả những biến cố
theo sau: Ban Mê Thuột, Pleiku, Huế, Đà Nẵng đều có nguồn gốc từ hai yếu tố
chính: Quốc Hội Mỹ cắt viện và những khuyết điểm của Việt Nam Hóa.
Từ
“Việt Nam Hóa” tới “Afghan Hóa”
Sau “Iraq Hóa” (Iraqiazation) bây giờ Mỹ “Afghan Hóa” (Afghanization). Mới đây TT Trump bất chợt quyết định
rút 7,000 quân làm cho chính quyền Kabul hốt hoảng vì họ cứ tưởng là 14,000
quân của Mỹ cộng với 8,000 quân của NATO sẽ tiếp tục đóng lại Afghanistan để
yểm trợ. Bây giờ Mỹ lại nêu rõ thời điểm để rút quân, giống như TT Nixon đã làm
trong thời gian Việt Nam Hóa.
Tướng Kenneth McKenzie, tư
lệnh mới của Trung Tâm Chỉ Huy (U.S. Central Command) trình bày với Quốc hội: “Quân đội Afghanistan sẽ giải thể nếu không có Mỹ hỗ trợ… Tôi nghĩ rằng một
trong những điều thực sự mang lại thiệt hại lớn nhất cho họ là chúng ta đặt ra
một lịch trình để rút quân, và nói với họ ‘chúng tôi sẽ rút hết vào một thời
điểm nhất định.”
Tờ NYT bình luận: “Một điểm sáng mà một số người nhìn thấy về
quyết định rút quân khỏi Afghanistan là nó có thể được phối hợp với các cuộc đàm phán hòa
bình như một biện pháp để xây dựng lòng tin.”
Khi chính phủ Nixon phối hợp
việc rút quân với mật đàm của Kissinger, lòng tin của chính phủ Miền Nam suy
sụp. Thấy vậy, TT Nixon hứa hẹn là đừng lo, chúng tôi sẽ tiếp tục yểm trợ và
luôn luôn đứng bên cạnh các ông. Vừa qua, trước khi thông báo quyết định rút
quân, ông Zalmay Khalilzad, đại diện của chính quyền Trump (phụ trách đàm phán
với Taliban) đã trấn an Kabul: “Nếu quân
đội Afghanistan muốn chiến đấu hoặc tiếp tục chiến đấu, chúng tôi đảm bảo với
họ rằng Hoa Kỳ sẽ sát cánh với chính phủ và người dân Afghanistan.”
Nghe như TT Nixon và cố vấn
Kissinger đang nói với TT Thiệu.
Mong rằng những bài học về
Việt Nam Hóa sẽ được rút tỉa: thà chậm còn hơn là không bao giờ.
NGUYỄN TIẾN HƯNG
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.