Tôi
biết làm thơ từ khi còn rất nhỏ, nhưng mãi tới gần tuổi năm mươi mới thật sự
đọc được thơ qua một người mà càng đọc tôi càng được mở ra những cánh cửa khác
của sự mầu nhiệm từ thi ca.
Người
làm thơ ấy là Tô Thùy Yên, một ánh sáng khơi gợi niềm cảm hứng, một cành khô
giữa rừng có khả năng giúp người đi lạc trong cơn mê muội thẳm sâu của hưng
phấn tìm được lối ra, một lẻ loi của cây xương rồng giữa sa mạc có khả năng
chống lại sự cô đơn mà thượng đế giao phó.
Thơ
của Tô Thùy Yên được rất nhiều người yêu mến vì chất tĩnh trong cái động của
nó. Nếu 10 năm tù là trạng thái “động” của những buốt nhức của cơn đau thể xác
thì “thế giới vui từ nỗi lẻ loi” là
cái tĩnh thiền đạo của một người đã hiểu tường tận nỗi lẻ loi có sinh lực như
thế nào. Lẻ loi ấy chỉ có thể hiện hữu trong một tâm thế vị tha, tha thứ những
hằn học, những miệt thị, những oán khí của người khác đã dành cho mình. Lẻ loi
vì sẽ không có nhiều người làm được. Lẻ loi vì tuy cúi mái đầu sương đã điểm
nhưng vẫn tin vào tâm lượng của đất trời vẫn nặng trĩu niềm vui.
Niềm
vui ấy Tô Thùy Yên đã tìm thấy sau khi từ giã trại cải tạo về nhà sau hơn 10
năm biệt xứ:
“Ta
về cúi mái đầu sương điểm / Nghe nặng
từ tâm lượng đất trời / Cảm ơn hoa đã vì ta nở /
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.”
Chất
thiền trong thơ Tô Thùy Yên có lẽ được hình thành từ những cơ cực mà cuộc đời
ông chứng kiến. Những cái chết anh liệt nhưng thảm thương, những chia ly tràn
khỏi bến bờ đau đớn, sự phân hủy cuộc sống đến vô tận đã đày ải tâm linh trước
khi chính bản thân ông sụp đổ. Trong bài Qua
sông ông viết:
“Áo
quan phong quốc kỳ anh liệt / Niềm
thiên thu đầm cỗ xe tang / Quê xa không tiện đường đưa tiễn / Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh / Thêm một
chút gì như hối hả / Người thân chưa
khóc ráo thâm tình...”
Những
câm nín ấy vẫn ám ảnh ông nhiều năm sau trong bài Ta về, nỗi ám ảnh chiến tranh
và tình người, một “hội chứng nghiến răng” của nhân loại: xông vào cái chết để
bảo vệ ảo tưởng. Tô Thùy Yên sống và gậm nhấm thời kỳ ấy nên biết từng mùi vị
của những lần hành quân đầy máu, máu của bạn bè lẫn đối phương. Máu không những
đổ ra từ súng đạn nó cũng đổ ra từ tàn khốc của trại giam. Ám ảnh trở thành
thói quen và Tô Thùy Yên lẩm bẩm sợ cho cơn thất lạc của chính mình:
“Ta
về như bóng ma hờn
tủi / Lục lại thời gian, kiếm
chính mình / Ta nhặt mà thương từng phế liệu / Như từng hài cốt sắp vô danh”
Trong
những cuộc hành quân ấy Tô Thùy Yên không ít lần thấy vẻ đẹp tiềm ẩn phía sau
những quả mìn tàn nhẫn, những bức tranh được ông phác thảo vội vã miêu tả cái
mỏi mệt của thiên nhiên quyện lấy con người như một định mệnh khắc nghiệt. Con
người thì rã rời trời thì thấp và ướt sũng, mây trên trời lục bình dưới sông
tất cả như hòa nhịp cho một bản nhạc buồn chỉ có chiến tranh mới có thể tạo ra
được:
“Đây
ngã ba sông, làng sát nước / Xuồng ba lá đậu
kế chân bàn / Trời mới tạnh mưa còn thấp ướt / Lục bình, mây mỏi
chuyến lang thang”
Tô
Thùy Yên là một nhà thơ, đã hẳn, tuy nhiên ông còn là một họa sĩ thiên tài. Thơ
ông đầy màu sắc quyết liệt chói chang của mặt trời, lạnh lẽo cô đơn như nước
biển, và hơn cả tranh, màu sắc trong thơ ông phảng phất hình bóng con người.
Trong
“Trường sa hành”, một bài thơ quan
trọng trong sự nghiệp thi ca của ông chúng ta có thể đồng ý với nhau ở điểm:
màu sắc đã tạo thơ ông khác biệt vượt qua rất nhiều tác giả khác cùng thời. Chỉ
có điều không như hội họa, chúng ta chỉ thấy hai màu xanh lơ và đen trong cả
bài thơ nhưng trong lòng lại bùng vỡ hàng loạt những gam màu khác: Đỏ úa của
mặt trời trong ánh chiều tà mà tác giả gọi là “chiều rã” Những thay đổi quang phổ của rong biển, những long lanh
từ muôn vạn tầng màu làm hồn ta lay động, màu lửa cháy rực cả đào khiến chim
cũng đen úa cả tiếng xao xác quần bay. Miếng mồi cháy một màu khét khói cũng
không khỏi ngậm ngùi…
Trong
làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều rã rưng
rưng biển
Vầng khói chim đen thảng
thốt quần
Kinh
động đất trời như cháy đảo...
Ta
nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta
ngồi bên đống lửa man rợ
Hong
tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe
cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
…..
Rồi
nữa, kế sau màu sắc là âm thanh. Thứ âm thanh kinh khủng của tiếng gọi không
thành lời. Âm thanh bị bóp nghẹt giữa hư vô. Âm thanh rơi vào một khoảng cách
đặc sệt của không gian đóng kin:
“Đất liền, ta gọi, nghe ta không? / Đập hoảng Vô Biên, tín
hiệu trùng / Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
/ Con chim động giấc gào cô đơn”
Viết
về Tô Thùy Yên phải cần cả cuốn sách, một vài trang giấy không những bất toàn
mà còn hời hợt. Nhưng sự ra đi của ông nếu không thể thắp bằng đuốc để tưởng
nhớ thì đành dùng một nén nhang cũng đủ để tiễn đưa ông. Trong tâm thế ấy cùng
chia sẻ với những gì mà năm 1991 ông đã viết trong trại biệt giam 3C Tôn Đức
Thắng:
Ta
nằm xuống
Dỗ mình hãy cố
ngủ
Tập quen dần
với giấc thiên thu
Hãy
ngủ, ông nhé và tôi tin rằng những gì ông để lại thế gian này cũng thiên thu
không kém….
MẶC
LÂM (Bài đã đăng trên VOA ngày 23.05.2019)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.