Biểu tình tại Seatle năm 2015 phản đối một nhóm nhạc Canada lấy tên là "Viet Cong". Một thời gian sau nhóm này thông báo đổi tên. |
Ai cũng biết Việt Cộng là cộng sản Việt Nam,
nhưng theo sách sử cụm từ lại mang nhiều ý nghĩa khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau.
Vào đầu năm 2018, nghiên cứu sinh sử Viện Đại
Học Wisconsin-Madison, Brett Reilly công bố trên trang The Diplomat bài “Cội
nguồn đích thực của cụm từ Việt Cộng”.
Brett Reilly cho biết đã
phát hiện hai điều (1) cụm từ Việt Cộng và (2) cuộc nội chiến Quốc-Cộng đã khởi
đầu từ những năm 1920 tại miền Nam Trung Hoa, hơn ba thập niên trước khi người
Mỹ tham chiến tại Việt Nam.
Như vậy cuộc chiến Quốc-Cộng đã kéo dài gần trăm
năm, vẫn còn tiếp diễn, thách thức phải viết lại lịch sử chiến tranh Việt Nam
Cứ mỗi tháng Tư, cụm từ Việt Cộng lại thường
xuyên được nhắc đến trong cộng đồng người Việt hải ngoại, nhân 44 năm Sài Gòn
thất thủ. Xin được tóm tắt công trình nghiên cứu của Brett Reilly và giải thích
lý do vì sao đảng Cộng sản Việt Nam luôn dị ứng khi được gọi chính danh là Việt
Cộng.
Sách sử chính thống
Tự điển, sách sử, báo chí ngoại ngữ đều định
nghĩa Việt Cộng là những du kích quân cộng sản chống lại quân đội và chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn 1954-75.
Tác giả quyển “Victory at any cost” (Chiến
thắng bằng mọi giá) Cecil B. Currey còn quả quyết rằng cụm từ do Thiếu tướng
tình báo Mỹ Edward Lansdale cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nghĩ ra từ
tiếng Anh Vietnamese Communists - Vietcong.
Lansdale nhận thấy các cán bộ Việt Minh hoạt
động ở miền Nam sau 1954 là những người vừa đánh bại quân Pháp nên có uy tín
với dân, là mối đe dọa quyền lực của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nên đề nghị ông
Diệm đừng gọi họ là Việt Minh mà gọi bằng một tên mới là Việt Cộng. Để người
dân miền Nam lầm tưởng rằng đây là hai lực lượng khác nhau.
Từ đó các sử gia Mỹ theo trường phái chính thống
lập luận rằng Mỹ phạm sai lầm khi tham gia chiến tranh, biến xung đột của những
người nổi dậy có tinh thần dân tộc tại miền Nam thành chiến trường chiến tranh
lạnh giữa Mỹ, Nga và Tàu. Còn các
sử gia theo trường phái xét lại cho rằng Việt Cộng là cụm từ thích hợp để minh
họa việc Nga, Tàu và Bắc Việt lãnh đạo cuộc nổi dậy tại miền Nam, Mỹ tham gia
để ngăn chặn sự lan rộng của cộng sản xuống vùng Đông Nam Châu Á.
Qua nghiên cứu, Brett Reilly biết được cụm từ
Việt cộng bắt nguồn từ tiếng Trung Hoa “zhonggong” phát âm tiếng Việt là
“Trung Cộng”. Cụm từ
này đã được những người Việt bị Pháp truy lùng phải trốn sang miền Nam Trung
Hoa vào những năm 1920 sử dụng. Việt Cộng chỉ
những người Việt theo chủ nghĩa quốc tế cộng sản, còn những người Việt theo chủ
nghĩa quốc gia được gọi là Việt Quốc.
Nội chiến bắt đầu
Một cụm từ khác được Brett Reilly đề cập tới là
cụm từ Việt gian cũng bắt nguồn tiếng Trung Hoa “Hanjian” phát âm là Hán
gian ,chỉ những người Trung Hoa phản quốc.
Cuối thập niên 1920, khi Quốc Dân Đảng Trung Hoa
nhận định rằng chủ nghĩa quốc tế cộng sản thực chất chỉ là chủ nghĩa thực dân
kiểu mới của nước Nga Sô viết, và như thế Trung Cộng - những người Trung Hoa
theo cộng sản - là Hán gian phản quốc.
Cuộc chiến này ảnh hưởng đến Việt Cộng và Việt
Quốc, một bên theo Mao còn bên kia theo Tưởng, khơi mào cuộc nội chiến ý thức
hệ giữa những người Việt chống Pháp lưu vong tại miền Nam Trung Hoa.
Nhập cảng Việt Nam
Theo Brett Reill, cuộc chiến lan sang miền Bắc
Việt Nam, các bên tiến hành theo dõi lẫn nhau và thỉnh thoảng lại ám sát những
kẻ mà họ nghi là người được phía bên kia trà trộn vào.
Trên Tràng An Báo, xuất bản tại Huế, năm
1938, Cụ Phan Bội Châu tuyên bố những người theo cộng sản là: “những người lợi dụng chủ
nghĩa xã hội nhằm chia rẽ đất nước, phá hoại sự thống nhất, tiêu diệt tinh thần
quốc gia, dân tộc”.
Đáp lại, ông Võ Nguyên Giáp và ông Trường Chinh,
hai lý thuyết gia cộng sản, trên tờ báo Pháp thiên tả Notre Voix (Tiếng
Nói của Chúng Ta), tuyên bố Cụ Phan Bội Châu là “tên phản quốc”. Có thông tin cho biết chính lãnh
tụ cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã báo cho thực dân Pháp bắt Cụ Phan Bội Châu để
lãnh thưởng.
Trận chiến Quốc-Cộng không chỉ diễn ra gay gắt
trên các cột báo, mà còn diễn ra bên trong hệ thống nhà tù thuộc địa.
Một bản sao cương lĩnh 12 điểm, năm 1935, của
Việt Nam Quốc dân đảng, được tìm thấy trong nhà tù ở Hà Nội, liệt kê hai mục
đích đầu tiên của đảng là nâng cao nhận thức về dân tộc Việt Nam và xoá bỏ chủ
nghĩa cộng sản.
Ở nhà tù Côn Đảo, cuộc xung đột ý thức hệ dẫn
đến những trận thanh toán gây chết người. Trần Huy Liệu, từng là Bí thư kỳ bộ
Nam kỳ Việt Nam Quốc dân đảng, theo cộng sản khi bị tù tại Côn Đảo, hồi tưởng: “Gió
biển lạnh lẽ ở Côn Đảo không thể xua tan được bầu không khí căm thù bao quanh
hòn đảo”.
Việt Minh cướp chính quyền 19/8/1945
Sau một giai đoạn rất ngắn hợp tác, hai phía
Quốc-Cộng lại sử dụng từ “Hanjian” - Hán gian - cho các đối tượng được
họ ghép cho là Việt gian phản quốc, khởi động cuộc nội chiến đẫm máu.
Các đơn vị Việt Minh trung thành với Võ Nguyên
Giáp tấn công các đảng quốc gia, buộc những người quốc gia một lần nữa phải
trốn sang Trung Hoa. Những
người theo cộng sản đệ tam giết cả những người cộng sản đệ tứ, những tổ chức
yêu nước không bị ảnh hưởng của Tưởng Giới Thạch, những giáo phái yêu nước như
đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, giết tất cả những ai không chấp nhận sự thống trị của
cộng sản đệ tam.
Khi chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ
vào cuối năm 1946, những nhóm người Việt yêu nước không theo cộng sản liên kết
với nhau, chịu sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại và cộng tác với Pháp để từng
bước giành độc lập bằng biện pháp hòa bình và hợp tác.
Khi người Mỹ cắt viện trợ và ngừng bán vũ khí
cho chính phủ Tưởng Giới Thạch, các lực lượng Trung Cộng do Mao Trạch Đông lãnh
đạo ngày càng tiến gần đến biên giới phía Bắc.
Theo Brett Reill đến năm 1948, những tờ báo có
tinh thần dân tộc chống Pháp đã sử dụng cụm từ Việt Cộng, như trên tờ Tiếng
Gọi của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã có bài báo động: “Nếu quân đội Việt
Cộng có thể bắt tay với Trung Cộng ở biên giới Trung-Việt, thì cái gì ngăn cản
được quá trình cộng sản hóa Việt Nam?”
Nếu cụm từ Việt Cộng có nghĩa xấu, thì nó chỉ
xấu vì các đảng quốc gia đã liên kết người cộng sản Việt Nam (Việt Cộng) với
người cộng sản Trung Hoa (Trung Cộng).
Đến năm 1950, Trung Cộng viện trợ cố vấn, quân
sự, kinh tế, Việt Minh bắt đầu chuyển thành nhà nước toàn trị, thực hiện chỉnh
huấn, chỉnh quân, cải cách ruộng đất theo đường lối Mao Trạch Đông.
Chính quyền Quốc gia dưới sự lãnh đạo của cựu
hoàng Bảo Đại thường xuyên sử dụng cụm từ Việt Cộng trong các thông tin chính
thức để tố cáo ban lãnh đạo Việt Minh là cộng sản. Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa do đó chỉ kế thừa việc sử dụng cụm từ Việt Cộng để gọi
tất cả những người Việt theo cộng sản, không kể Bắc Nam.
Công trình nghiên cứu Brett Reill chấm dứt ở
đây, để lại một câu hỏi lớn là những người miền Nam thua cuộc vẫn luôn hãnh
diện với danh xưng Việt Quốc hay người Việt quốc gia, còn ngược lại đảng Cộng
sản Việt Nam mặc dầu thắng trận lại luôn dị ứng khi bị nêu đích danh là Việt
Cộng.
Sự thật lịch sử
Nếu Hồ Chí Minh có hằng trăm tên, tuổi, bút
danh, thay đổi tùy tình hình quốc tế cộng sản và hoàn cảnh cách mạng Việt Nam
thì đảng Cộng sản cũng thế.
Đảng Cộng sản từng bỏ cả tên cộng sản, để lấy
tên Hội Truyền Bá chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng Lao Động, đảng Nhân Dân Cách Mạng,
hay lập ra hai đảng ngoại vi là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội.
Trong từng thời kỳ đảng Cộng sản còn sử dụng các
tổ chức như Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, Việt Minh, Mặt trận Giải phóng Miền
Nam, nhiều tổ chức ngoại vi khác để hoạt động cộng sản.
Nếu Hồ Chí Minh phải lấy bút danh nhà báo C.B.
(Của Bác) để viết bài “Địa Chủ Ác Ghê” trên báo Nhân Dân đấu tố đến chết
điền chủ Nguyễn Thị Năm. Thì đảng
Cộng sản cũng phải sử dụng đảng Nhân Dân Cách Mạng, Mặt trận Giải phóng Miền
Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam, để đánh lừa dư luận, chiến
tranh tại miền Nam là cuộc nổi dậy của người miền Nam yêu nước, không do cộng
sản miền Bắc lãnh đạo.
Ở nông thôn người dân thường xuyên bị Việt Cộng
đe dọa, bị khủng bố, bị xử tử hay bị bắt lên rừng giam cầm đến chết. Ở thành
thị Việt Cộng càng ngày càng gia tăng đặt bom hay pháo kích khủng bố.
Biến cố Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Thủ đô
Sài Gòn và nhiều thành phố lớn tại miền Nam giết và bắt lên rừng hằng chục ngàn
thường dân. Riêng tại
Huế lên đến 5,000 người bị giết hay chôn sống, nhiều ngàn người khác bị bắt lên
rừng không có ngày về.
Chiến tranh càng gia tăng thì hình ảnh tội ác
Việt Cộng càng được phổ biến trên Đài truyền hình hay qua báo chí. Cụm từ Việt
Cộng trở thành ác mộng thành nỗi kinh hoàng của người dân miền Nam.
Khi chính phủ Hoa Kỳ bỏ cuộc “cút” khỏi miền
Nam, nhiều người ở thôn quê, ở thị xã hay tỉnh nhỏ sợ Việt Cộng phải bỏ nhà
cửa, ruộng vườn lên Sài Gòn hay các thành phố lớn.
Tháng 3/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra
lệnh rút quân, thì từng đoàn người Kinh bỏ nhà, bỏ cửa, đồng bào Sắc Tộc bỏ
buông làng dìu dắt chạy trốn Việt Cộng. Cuộc rút quân (và rút dân) hoàn toàn thất bại, quân đội Bắc
Việt kéo vào tiếp thu Huế, Đà Nẵng, rồi cuối cùng tiếp thu Sài Gòn ngày
30/4/1975.
Sau ngày tang thương này, người miền Nam bị tù
cải tạo, bị đánh tư sản, bị đi kinh tế mới, cả một guồng máy cai trị từ miền
Bắc đưa vào, đến công an khu vực cũng là người miền Bắc, buộc người miền Nam
phải bỏ nước ra đi.
Với người miền Nam, cụm từ Việt Cộng vẫn là nỗi
kinh hoàng luôn ám ảnh, như chiến tranh Quốc-Cộng gần trăm năm vẫn chưa chấm
dứt.
Đảng Cộng sản sợ sự thật về mối liên hệ gắn bó
từ tư tưởng đến hành động với đảng Cộng sản Trung Hoa – “zhonggong” –
Trung Cộng, sợ sự thật về chiến tranh Việt Nam và tội ác họ đã gây ra cho dân
tộc Việt Nam.
Họ sợ sự thật lịch sử, bởi thế họ rất dị ứng khi
được nêu chính danh là Việt Cộng.
NGUYỄN QUANG DUY
Melbourne, Úc Đại Lợi, 30/4/2019
(Tác giả gởi blog Thụy
My)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.