Khi nhát dao
chém ngang hình đất nước, thì văn học Việt cũng chẻ đôi dòng chảy.
Bắc Nam như hai thái cực đối nghịch nhau về cả tư tưởng lẫn bút
pháp. Sau Nhân văn giai phẩm, trên đất Bắc lại một cuộc nồi da xáo thịt
nữa xảy ra với cái tên gọi mơ hồ: "nhóm
xét lại chống Đảng". Cơn sóng ngầm ấy cuốn đi nhiều công thần
của chế độ, cả những nhà báo, văn nhân. Nhà văn Vũ Thư Hiên và cha mình,
cụ Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nằm trong số
đó.
Chín năm dài
đằng đẵng trong lao tù, cứ tưởng Vũ Thư Hiên đã đoạn tuyệt với văn
thơ. Nhưng kỳ lạ thay, chính những năm tháng quằn quại đớn đau ấy là
chất liệu, nguồn thực phẩm nuôi dưỡng, thôi thúc tâm hồn, để Vũ Thư
Hiên viết nên những tác phẩm tuyệt vời, với bút pháp hiện thực nhân
đạo đặc trưng đến vậy. Có thể nói những tác phẩm ấy không chỉ được
viết bằng tài năng, trí tuệ mà còn thấm đẫm cả máu và nước mắt
của nhà văn.
Vũ Thư Hiên
người gốc Nam Định, sinh năm 1933 tại Hà Nội, trong một gia đình cha
mẹ đều là thành viên của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tiền thân Ðảng
Cộng sản Ðông Dương. Họ từng là đồng chí, bạn bè thân thiết, hầu hết
của các lãnh tụ Đảng Cộng sản, và đã giúp đỡ, cưu mang họ ngay từ
những ngày đầu còn trứng nước. Do vậy, như một dòng chảy tự nhiên, Vũ
Thư Hiên sớm đứng vào hàng ngũ của những người kháng chiến. Mười ba
tuổi ông đã tham gia đội tuyên truyền xung phong. Rồi trở thành người
lính năm mười sáu tuổi. Cùng đó, tài năng văn thơ Vũ Thư Hiên cũng
sớm bộc lộ trong thời gian này.
Vở kịch đầu tay
Lối Thoát viết năm hai mươi tuổi
(1953) là thẻ thông hành đưa Vũ Thư Hiên nhập vào làng văn nghệ kháng
chiến. Vài năm đầu thập niên sáu mươi, sau thời gian tu nghiệp ở Nga
Xô, Vũ Thư Hiên được độc giả biết đến nhiều hơn, từ bản dịch Bông Hồng Vàng, và tập truyện ngắn
của nhà văn Paustovsky. Nhưng chỉ đến khi truyện ngắn “Đêm Mất Ngủ’’, và kịch bản phim “Đêm Cuối Cùng, Ngày Đầu Tiên’’ bị Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh
gán cho cái tội bất mãn chế độ, không có lập trường giai cấp, nhân
đạo chung chung, cùng tập truyện Đêm Mùa
Xuân (nhà xuất bản Lao Động 1963) bị thu hồi, thì Vũ Thư Hiên mới được
người đọc biết đến.
Năm 1976 ra tù,
sau thời gian văn nghệ được “cởi trói”, ông tiếp tục dịch sách, viết kịch
bản phim, sân khấu. Tuy nhiên, xét về nội dung nghệ thuật, Miền Thơ Ấu, Đêm Giữa Ban Ngày và
tập truyện ngắn được viết gần đây mới là những tác phẩm văn học
đặc sắc, đóng đinh tên tuổi Vũ Thư Hiên vào lòng người.
*Thủ pháp nghệ thuật rọi sáng một tài năng
Tôi đã đọc khá
nhiều truyện thiếu nhi trong và ngoài nước. Nhưng có thể nói, Miền Thơ Ấu của Vũ Thư Hiên là một
trong rất ít những cuốn hay nhất, từ trước đến nay mà tôi đã được
đọc. Tôi nghĩ, Miền Thơ Ấu hay,
sống được trong lòng người đọc là nhờ bút pháp, và văn phong đặc trưng
Vũ Thư Hiên. Hơn nữa, trong truyện ký, hồi tưởng dường như qua lăng
kính của các nhà văn sinh trưởng từ thị thành khi viết về thôn quê
sẽ khách quan, mang tính khám phá, sinh động hơn. Nó gây cho người đọc
có cảm giác thú vị như được cùng tìm hiểu, khám phá vùng quê ấy
cùng nhà văn chăng? Thật vậy, ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây, để
thấy được cái sự thờ ơ của anh Cu Nhớn trước cái miền quê mình đang
sống, nhưng lại rất đẹp, cuốn hút cậu bé thị thành Vũ Thư Hiên. Có
thể nói, đây là những trang văn đẹp như một bài thơ của Vũ Thư Hiên
vậy:
“Những chiếc lá tre rơi lềnh phềnh trên mặt nước khẽ
rùng mình mỗi khi có gió thoảng. Lũ thờn bơn với cặp mắt đen láy ngo ngoe trên
mặt nước. Trên cao, một con bói cá xanh biếc ngồi yên lặng như một nhà hiền
triết. Thỉnh thoảng, nó rời cành cây khô lao vút xuống nước như một mũi tên vừa
rời cây cung, rồi lộn trở về đậu vào chỗ cũ, hai cánh xòe ra phơi gió. Trên làn
nước gần như bất động, những con kéo vó lênh khênh nhẹ nhàng trượt qua trượt
lại trong một điệu vũ khó hiểu. Tất cả thu hút tôi, còn anh Cu Nhớn thì thờ ơ,
anh chỉ gắn chặt mắt vào những cái phao trắng muốt làm bằng cuống tỏi’’. (Miền Thơ Ấu - Sách
đã dẫn)
Trong văn chương
đôi khi có những sự việc, câu chuyện bị coi là nhỏ nhoi, tầm thường,
nhưng chúng lại mang ý nghĩa sâu sắc, hàm lượng tư tưởng không hề nhỏ,
đến với người đọc. Cùng với ngôn ngữ trong sáng giản dị, cộng với
quan sát tỉ mỉ khi miêu tả, hoặc mượn thiên nhiên, sự vật bộc lộ tâm
trạng cũng như gửi tâm sự của mình vào đó, Miền
Thơ Ấu đã trở thành một tác phẩm đẹp. Nghệ thuật này, như một phần
cán cân định lượng giá trị của một tác phẩm văn học. Cho nên, khi
đọc Miền Thơ Ấu, tôi đã phải
dừng nhiều lần, đọc đi đọc lại những trang văn như vậy. Sự rung cảm
ấy, dường như Vũ Thư Hiên không chỉ dắt ta về với tuổi thơ, mà còn
cho người đọc tìm hiểu và khám phá nó, mà từ bấy lâu nay cứ ngỡ
rằng, tầm thường giản đơn:
“Anh Cu Nhớn không phải chỉ giỏi câu. Anh có những
cần câu tuyệt vời, tự làm lấy. Hóa ra nghệ thuật làm cần câu chẳng đơn giản
chút nào. Anh phải ngắm nghía, chọn lựa những cành tre đực thẳng và đẹp từ khi
chúng còn ở trên cây, xanh rờn và mềm oặt. Phải chờ cho đúng đủ già, anh mới
bắt, hơ lửa uốn cho thẳng rồi sau đó mới lấy dao thật bén mà gọt mấu. Gọt cũng
phải nhẹ nhàng, không được phạm, nghĩa là vô ý để lưỡi dao ăn quá sâu vào thịt
tre.Rồi gác cái cần câu đã được chế tạo lên ránh để cho khói và thời gian làm
cho nó lên nước, sau đó hạ xuống đánh bóng bằng xơ tre, rồi ngâm xuống ao cho
cần câu dẻo lại, khi ấy mới dùng được. Một cái cần câu như thế sẽ dẻo đến nỗi
gặp cá to nó sẽ uốn mình cong vút tới tận cán nhưng không chịu gãy“. (Miền Thơ Ấu-
Sách đã dẫn)
Quả thật, Miền Thơ Ấu của Vũ Thư Hiên đã gây
cho tôi nhiều lần bật cười thích thú, bởi sự liên tưởng so sánh rất
lạ, và phong phú mà rất ít gặp ở các nhà văn khác. Đoạn văn sinh
động, giầu hình tượng so sánh dưới đây, ngoài sự trong sáng, tài năng
khai thác, nắm bắt tâm lý nhân vật, con người của Vũ Thư Hiên, còn
đọng trong ta cái mang mang hoài cổ, dấu ấn mù sương huyền bí của
những sinh hoạt cùng tập tục dân gian, cổ truyền ở một làng quê
Việt:
- Rồi sao nữa, hả cô?
- Ờ, cô kể đến đoạn nào rồi nhẩy…“
(Miền Thơ Ấu - Sách đã dẫn)
Bố cục truyện
giản dị, với những hình ảnh ẩn dụ chìm trong ngôn ngữ trong sáng,
mộc mạc, nhà văn thường cài đặt suy nghĩ của mình vào nội tâm nhân
vật một cách gián tiếp, mở đầu, hay kết thúc truyện (bằng cách)
đột ngột, cắt ngang, hoặc bỏ ngỏ làm cho người đọc luôn phải suy
nghĩ, rồi tự đưa ra những nhận định của riêng mình.
Ba Ngày Ở Thị Trấn Cù Cưa là một trong những truyện ngắn rất hay và điển
hình về đặc tính nghệ thuật của Vũ Thư Hiên. Đây là truyện ngắn có
nội dung cũng như bố cục rất đơn giản, nhưng nội hàm của nó mang đến
cho người đọc một vấn đề lớn lao. Gấp trang sách lại, lặng yên ngẫm
nghĩ một chút ắt ta thấy được sự tráo trở, lưu manh tận cùng khi có
quyền lực của kẻ từng được nhân dân nuôi dưỡng và che chở. Cái chết
bởi lũ quét của Con Nặc Nô như một lời dự báo sự sụp đổ của một
vương triều độc đoán.
Tính dự báo
ấy, trong truyện ngắn Vũ Thư Hiên tuy làm cho người đọc bùi ngùi,
nhưng vỡ òa, sảng khoái như nút thắt trong vở kịch đã được mở vậy.
Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây, để hiểu thêm về cái chủ thuyết,
một đảng phái hoang tưởng vô gốc gác, không cội nguồn, thông qua hình
ảnh Con Nặc Nô đầy quyền lực, cũng như tài năng sử dụng từ ngữ,
hình ảnh ẩn dụ của Vũ Thư Hiên:
“ …Chính chúng tôi cũng còn nhầm nữa là. Con Nặc Nô
ấy à, là con mồ côi đấy. Chúng tôi nuôi nó từ tấm bé. Gọi là con mồ côi cũng là
quen miệng thôi, chứ không đúng. Nó là đứa con hoang, không cha không mẹ. Chính
cô con dâu lão Trưởng Giám nhặt được nó ở đầu ngõ, bọc trong mớ giẻ. Không biết
đứa trốn chúa lộn chồng nào nỡ vứt đứa con rứt ruột đẻ ra như thế? Nó lớn lên,
cả xóm đùm bọc nó. Mới nghĩ rằng tre già măng mọc, nay nó trưởng thành, nó là
người đứng đầu ở đây thì dân được nhờ, ăn cây nào rào cây ấy. Hoá không phải…
Lúc bé nó ngoan lắm, ai cũng yêu…Con này mà nói thì khéo vô cùng. Nó nói kiến
trong lỗ phải bò ra… Phàm cái gì từ miệng nó phát ra đều hay cả, cứ gọi là ngọt
như mía lùi. Nhưng khốn nạn, hay thật đấy, cơ mà chỉ hay cho nó, chứ không hay
cho mình…’’
*Sự can đảm trước bạo quyền qua ngôn ngữ điện
ảnh
Truyện ký, tùy
bút, hồi ký là thể loại văn học mà tôi thích và luôn tìm đọc. Tôi
đã đọc Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ
Thư Hiên cách nay khoảng hai chục năm, giờ ngồi đọc lại vẫn thấy mới,
và cảm giác lần đầu vẫn còn y nguyên. Có thể nói, Đêm Giữa Ban Ngày là cuốn sách
toàn bích về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Nhiều người cho rằng, Đêm Giữa Ban Ngày là hồi ký chính
trị. Còn tác giả Vũ Thư Hiên thì bảo: “Văn
học đích thực không có chỗ nơi đây”. Tôi không nghĩ như vậy.
Dường như, khi
nói những câu nhún nhường, khiêm tốn này, nhà văn Vũ Thư Hiên đã quên
khuấy mất câu nhận định của Paustovsky, mà ông đã trích dẫn ở trong
tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày chăng
:"Nhà văn cứ thản nhiên mà sống. Chẳng
có gì của cuộc đời đi qua mà không để lại dấu vết, không trở thành tài liệu văn
học". Hơn thế nữa, với văn phong, thủ pháp nghệ thuật đặc
trưng, cùng xúc cảm, và tính nhân đạo của nhà văn Vũ Thư Hiên, tác
phẩm đã vượt lên trên những tình tiết chính trị khi trần thuật. Và
chính lúc không nghĩ mình làm văn, thì những trang viết ấy lại mang
đậm chất văn học. Do vậy, với tôi Đêm
Giữa Ban Ngày là một cuốn hồi ký văn học đích thực.
Sinh ra, lớn lên
và sống trong một giai đoạn lịch sử đảo điên: “Chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa
chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí.” (Đêm Giữa Ban Ngày).
Do vậy, cuộc sống, sự nghiệp văn chương của Vũ Thư Hiên bị bủa vây
trong cái vòng tròn nghiệt ngã đó. Chín năm tù đày, và những ngày
tháng trốn chạy, để đổi lấy sự thật, đổi lấy một cuốn sách, thì
quả thật giá trị ấy phải cân bằng máu, bằng sinh mạng của nhà văn.
Có thể nói, Đêm Giữa Ban Ngày là một bi hài
kịch lớn của cả dân tộc. Bức màn sân khấu cung đình đã được kéo
mở, bằng sự can trường của nhà văn. Với ngòi bút tài ba, ông bóc dần
những lớp lang thối tha bỉ ổi nhất của tầng lớp vua chúa, quan lại.
Đây là một trong những cuốn sách được người đọc từ trong đến ngoài
nước mong đợi, yêu mến và đồng cảm nhiều nhất, trong suốt những thập
niên vừa qua.
Thật vậy,
truyện bắt đầu từ một lát cắt ngang bởi hành động bắt cóc tác giả
ngay trên đường phố. Bông hồng có thật vô tình có mặt trên tay nhà văn trong
Lễ Giáng Sinh, ngừng chiến, trở thành hình ảnh đẩy kịch tính lên cao:
“Vừa lôi thốc tôi lên xe, tên ngồi bên phải lập tức
bẻ quặt tay tôi ra sau lưng. Bàn tay y cứng như sắt. Một nòng súng lục thúc
mạnh vào sườn tôi bên trái. Tôi nhăn mặt vì đau. Trong đợt này, cùng với tôi,
còn có những ai bị bắt ? Ðó là ý nghĩ đầu tiên đến với tôi, không hiểu sao lúc
ấy lại dửng dưng với số phận mình đến thế. Người lái xe quặt mạnh vô-lăng.
Chiếc xe lạng sang một bên, xoay nửa vòng rồi lao về phía Tràng Thi. Tôi vẫn
cầm bông hồng Nam Dương, quà tặng của một người bạn vong niên, trong bàn tay
trái còn được thả lỏng’’. (Đêm Giữa Ban Ngày - Sách đã dẫn)
Sự đối đầu can
đảm giữa nhà văn Vũ Thư Hiên với Huỳnh Ngự, với Hoàng…có thể nói,
kịch tính lên tới đỉnh điểm trong "Đêm
Giữa Ban Ngày" đôi khi làm cho người đọc toát mồ hôi hột. Vũ
Thư Hiên có gan đối đầu như thế vì ông sinh ra, lớn lên trong gia đình rất
đặc biệt. Cha mẹ ông đều là thành viên của Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội, tiền thân Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Họ từng là đồng chí, bạn bè, ân
nhân hầu hết của các lãnh tụ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Nguyễn
Lương Bằng, Lê Đức Thọ…Ngay từ nhỏ Vũ Thư Hiên đã tiếp xúc, làm quen,
cho nên hiểu khá rõ ràng cái chính thể này từ thượng tầng trở
xuống.
Cũng như tôi
vậy, một kẻ viết văn tép riu, mấy năm trước lò dò về Việt Nam, bị
mấy đồng chí an ninh, tuổi con cháu bắt giữ, trục xuất về Đức. Trong
lúc hỏi han thẩm vấn có đồng chí cháu đập bàn quát, anh là kẻ
ngụy biện. Cáy ngày, thỏ đế như tôi, ấy vậy mà cũng phát khùng,
đứng dậy chỉ mặt, không làm việc nữa. Chứ tầm cỡ như Vũ Thư Hiên
nhịn thế chó nào được.
Chuồng người,
một danh từ mới ghép, hoán chuyển thành tính từ chỉ cái dã man tàn
bạo của chế độ lao tù. Không chỉ hành hạ tinh thần bằng những thủ
đoạn lưu manh, không hề có ở ngoài đời, mà chế độ giam hãm kiểu này còn
triệt hạ người tù bằng những miếng ăn bẩn thỉu, nhục nhã đê hèn.
Cái đói đưa nhân phẩm con người trở về súc vật. Một miếng ăn trả
giá bằng mạng sống của con người. Vâng! Nếu chưa đọc những hồi ký,
bút ký, văn thơ của các nhà văn tù tội khác như: Bùi Ngọc Tấn, Phan
Nhật Nam, Phạm Tín An Ninh, Nguyễn Chí Thiện…thì tôi không dám tin,
chỉ vì tranh nhau một miếng thịt gà chết (thối) mà Nhân đã chém
chết Hán còi, trong tác phẩm Đêm
Giữa Ban Ngày là sự thật:
– Hán Còi !
Hán Còi choàng tỉnh.
– Nhìn tao trả thù này !
Nhân chém một nhát, như bổ củi. Ðó là nhát quyết định. Hán Còi bật dậy, ôm lấy cổ.” (Đêm Giữa Ban Ngày- Sách đã dẫn)
Những kẻ tiếm
quyền, phi nghĩa, dù có sức mạnh, thế lực đến thế nào đi chăng nữa,
nhưng chúng luôn phải sống trong sợ hãi, yếu đuối, nhìn đâu cũng thấy
kẻ thù. Do vậy, sự đuổi cùng giết tận ấy, nảy sinh ra rất nhiều
chuyện thật bi hài, và cái mong manh của thân phận con người:
“ Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng
vài năm, thế mà ra tù cậy miệng anh cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí
anh ta còn nói đảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị xử
là nhờ lượng khoan hồng của Đảng…Ông có biết vì sao không? Là vì anh ta nhận
tội rồi, ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại
còn sợ bị trả thù vì phản cung nữa chứ. Tôi nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái
lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha
là thế nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có
thể bị bắt lại, đừng có đùa. Trong lệnh tạm tha người ta ghi: Xét tội trạng
chưa tới mức phải xử lý theo pháp luật…” (Đêm Giữa Ban Ngày - Sách
đã dẫn)
Khi phân tích
tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày: tính
nhân đạo của tác phẩm còn thể hiện rõ qua hình ảnh Arlequin (tên con
cóc nhỏ) được nuôi dưỡng, chăm sóc trong trốn lao tù. Cái lõi, đằng
sau hình ảnh Arlequin là nỗi cô đơn, và khát vọng tự do của con
người. Lời tự sự của Arlequin và tác giả đã được hình tượng hóa
thông qua ngôn ngữ điện ảnh. Sự tiểu thuyết hóa (nhân cách hóa) những
tình tiết, hình ảnh để bật lên tiếng nói khát vọng tự do ấy, một
lần nữa cho ta thấy, không có sự ràng buộc về thể loại trong văn xuôi
của Vũ Thư Hiên. Ông trộn các thể loại vào nhau như người trộn men vào cơm
rượu vậy, như cách nói của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Đây cũng là một
đặc tính nổi bật trong văn xuôi Vũ Thư Hiên. Đoạn trích dưới đây sẽ
làm sáng tỏ điều đó:
- Tôi không cầm tù Arlequin, tôi chỉ muốn Arlequin ở cùng tôi thôi. Không có Arlequin tôi buồn lắm.
Arlequin nói, ngậm ngùi :
- Tôi cũng muốn ở cùng anh, nhưng rất tiếc, không thể được. Tôi là một con cóc. Không con vật nào muốn sống trong lồng, trong chuồng, anh có hiểu như thế không ? Sống như thế không phải là sống. Chúng tôi không cầm tù nhau như các anh, loài người ... Không biết và không nỡ. Tôi biết : các anh nghĩ rằng loài người các anh là sinh vật thượng đẳng, các anh coi các anh cao hơn các loài khác, nhưng tôi nghĩ các anh lầm. Hoàn toàn không phải thế...’’ (Đêm Giữa Ban Ngày - Sách đã dẫn)
Có thể nói,
hồi ức với những tình tiết đan xen, chồng chéo không theo một trình
tự nhất định là thủ pháp nghệ thuật đặc trưng xuyên suốt tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày. Cũng với thủ
pháp này, đã được Bảo Ninh sử dụng rất thành công ở tiểu thuyết Nỗi Buồn Chiến Tranh. Với thủ pháp
nghệ thuật sinh động như thước phim quay ngược về qua khứ, không chỉ
dẫn dắt, buộc người đọc đi hết trang sách, mà dường như còn có độ
lùi về thời gian để Vũ Thư Hiên chiêm ngẫm, để tạo nên tác phẩm chân
thực, sâu sắc hơn.
Để mang tính
chân thực, Vũ Thư Hiên thường mượn nhân vật để bộ lộ cảm xúc, tư
tưởng, yêu ghét của mình. Hoặc ông đưa ra vấn đề tự người đọc phải
suy nghĩ. Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, người trước đây ông rất yêu kính.
Nhưng từ ngày cha ông, cụ Vũ Đình Huỳnh, và bản thân bị bắt vào nơi
tù đày, thì dường như tình yêu ấy của Vũ Thư Hiên đã rơi rụng mất.
Lời nhận xét dưới đây của Đích, một tiểu đoàn trưởng cũng qua cảnh tù
đầy vì một tội lãng nhách, phải chăng cũng là suy nghĩ của chính Vũ Thư
Hiên?
“Nhà tù cho tôi thấy một điều : không có tình đồng
chí ! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu : ông Hồ không phải đồng chí của ta,
ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến
những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương". (Đêm Giữa Ban
Ngày - Sách đã dẫn)
Lê Duẩn, hoặc
Lê Đức Thọ chưa bao giờ được Vũ Thư Hiên nể trọng. Tuy nhiên, có thể
thấy, lời văn của ông rất chừng mực. Và vẫn hình ảnh so sánh ẩn
dụ, chân dung, nhân cách Lê Duẩn được Vũ Thư Hiên khắc họa một cách
chân thật, tài tình:
“Vốn là một tên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tầu quốc gia chạy theo ý mình’’. (Đêm Giữa Ban Ngày - Sách đã dẫn)
Dù bị oan trái
tù đày với tận cùng thống khổ, nhưng đọc Vũ Thư Hiên ta có thể thấy
trong những trang viết của ông không hề có hận thù. Lời văn của Vũ Thư
Hiên điềm đạm, trong sáng, giữ đúng lễ giáo khi nhắc đến, kể cả tên
những người trực tiếp, và gián tiếp gây ra nỗi đau ấy cho gia đình
và bản thân ông. Đây là một trong những nhân cách của nhà văn Vũ Thư
Hiên được người đọc mến phục. Với đồng loại, không chỉ trên trang văn,
mà ngay trong tù đày tình người, lòng nhân đạo thể hiện đậm nét
trong tác phẩm Đoạn văn rất buồn, mang mang nỗi niềm cảm thương cho một
kiếp người, Vũ Thư Hiên đã làm ta ứa nước mắt khi đọc:
“Anh em tù ăn xong, vào tận chỗ ngó ông, mặt buồn
rầu. Không ai nói câu nào. Như thế gọi là viếng. Suất cơm của ông để chỏng chơ.
Mọi người bảo cứ để đó, khi chôn thì đặt nó lên mộ ông thay cho bát cơm quả
trứng….Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn
về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván
thiên – dấu chấm hết cho một kiếp người’’. (Đêm Giữa Ban Ngày - Sách
đã dẫn)
Có thể thấy,
không chỉ trong tác phẩm Đêm Giữa Ban
Ngày, mà ngay trong truyện ngắn của Vũ Thư Hiên cũng ăm ắp tình
người. Do vậy, đọc Vũ Thư Hiên lúc nào ta cũng cảm thấy nhẹ nhàng.
Lòng nhân bản ấy, cũng là bài học, hay một lời cảnh tỉnh cho những
kẻ đang tàn phá đất nước và cưỡi lên đầu, lên cổ những người dân
lương thiện đã từng cưu mang và che chở chúng:
– Nhà “Con Nặc Nô” ở ngay bên bờ suối. – cụ Trưởng Giám bỗng cuống quýt – Nước cuốn băng nhà nó mất.
Cả hai cụ xăng xái đập nứa, châm lửa. Cả hai, mỗi người một bó, đội mưa đi phăng phăng về hướng con suối. Trong cơn hốt hoảng hai cụ không nhớ đến tôi. Tôi khoác vội áo mưa, lẽo đẽo theo họ. Không thể hình dung được hai con người vừa mới hết lời nguyền rủa “Con Nặc Nô”, giờ lại hớt hải đi cứu nàng’’.(Ba Ngày Ở Thị Trấn Cù Cưa)
Có thể nói,
Vũ Thư Hiên đã hoàn toàn từ bỏ cái thiên đường ảo ảnh, lột trần
được mặt thật của xã hội và con người. Văn thơ dường như đã thay Vũ
Thư Hiên trả được phần nào món nợ với Tổ Quốc, gia đình và bạn bè
ông. Bước vào tuổi 86, cái tuổi xưa nay rất hiếm, nhưng ông vẫn miệt
mài viết. Truyện ngắn vẫn là sở trường của ông. Tôi dám nói chắc
rằng ông là một nhà văn tài hoa. Trong nỗi cô đơn của cuộc sống lưu vong
nghị lực sống, và sức viết của Vũ Thư Hiên không hề giảm.
Mới tuần trước
đây, lần đầu gặp ông, được cùng ông nâng lên đặt xuống ly rượu hội ngộ
gần như thâu đêm, chúng tôi đã có một cuộc chuyện trò lý thú, về nghề văn và
về những dự định sáng tác trong tương lai.
Sức sống mãnh
liệt trong con người này không bao giờ chịu tắt. Tôi có cảm giác như vậy.
ĐỖ TRƯỜNG
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.