Miền Nam trước đây gọi nhạc vàng là tân
nhạc để phân biệt với cổ nhạc. Sau chiến tranh, bên thắng cuộc mở “mặt trận” tấn
công vào nền văn hóa miền Nam, cả tân nhạc lẫn cổ nhạc đều bị nghiêm cấm và bị
hủy diệt.
Tân nhạc bị gán ghép là nhạc tâm lý chiến,
nhạc phản động, nhạc xuyên tạc đường lối chống phá cách mạng, hay bị xem là thứ
nhạc sến, nhạc đồi trụy, nhạc ru ngủ, nhạc lãng mạn bi quan, nhạc vàng vọt.
Từ ngữ nhạc vàng xuất phát từ miền Bắc đã
nhanh chóng được người miền Nam chấp nhận để phân biệt với nhạc đỏ là loại nhạc
cộng sản. Trong tâm tư người miền Nam màu vàng là màu da, màu dân tộc, màu mai
vàng phương Nam, màu tươi trẻ, màu của kim loại quý hiếm vào bậc nhất. Bởi thế
cờ vàng và nhạc vàng nhanh chóng được xem là báu vật của Việt Nam Cộng Hòa.
Vì yêu nhạc vàng…
Khi đất nước chia đôi, cách mạng văn hóa
được phát động tại miền Bắc, nhạc vàng bị nghiêm ngặt cấm đoán. Nhạc đỏ với âm
điệu Trung Hoa nhanh chóng thống trị nền âm nhạc miền Bắc, nhưng vẫn còn nhiều
người yêu nhạc thường lén lút thưởng thức nhạc vàng.
Một vụ án văn nghệ liên quan đến ban nhạc
ba người bị tố cáo hát xen kẽ nhạc vàng trong những đám cưới và những cuộc liên
hoan, được xử công khai tại Hà Nội vào tháng 1/1971. Ông Phan Thắng Toán, tự
Toán Xồm, bị kết án 15 năm tù giam và tước quyền công dân 5 năm. Ông Nguyễn Văn
Đắc 12 năm tù và tước quyền công dân 5 năm. Ông Nguyễn Văn Lộc tự Lộc Vàng 10
năm tù và tước quyền công dân 4 năm.
Thập niên 1980 khi họ ra tù, nhạc vàng đã
khá phổ biến nhưng cả ba vẫn bị quản chế và gặp phải muôn vàn khó khăn. Ông
Toán Xồm không nhà sống lang thang đã qua đời trên hè phố Hà Nội vào đúng đêm
30/4/1994, tưởng niệm 19 năm miền Nam lọt vào tay cộng sản. Ông Đắc mất năm
2005 trong nghèo khổ. Ông Lộc Vàng sống bôn ba, mãi đến gần đây mới mở một quán
cà phê nhỏ ở Hà Nội lấy tên Lộc Vàng.
Văn
nghệ tự do
Chủ trương của Việt Nam Cộng Hòa được ghi
rõ trong cả hai Hiến pháp 1956 và 1967 là xây dựng một xã hội dựa trên triết lý
nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Văn nghệ sĩ được tự do hoạt độn,g nên chỉ
trong vòng 20 năm đã có hằng chục ngàn bản tân nhạc đủ thể loại chính thức phát
hành, trong số có hằng trăm tác phẩm đã trở thành bất hủ. Đa số nhạc miền Nam đều
chan chứa tình người, tình yêu quê hương, yêu đất nước, nỗi mong muốn thanh
bình trở lại.
Tân nhạc được chia thành dòng nhạc tiền
chiến, nhạc đại chúng, nhạc trẻ, nhạc du ca và nhạc phản chiến. Còn được phân
loại thành nhạc lính, nhạc tình, nhạc kích động, nhạc khiêu vũ, nhạc dân ca, nhạc
sắc tộc, nhạc ngoại quốc lời Việt, nhạc chiêu hồi, nhạc chính huấn, nhạc đạo,
nhạc thiếu nhi, nhạc hướng đạo, nhạc sinh hoạt…
Người miền Nam trân quý tác giả nên trân
trọng đặt tên cho dòng nhạc Lam Phương, nhạc Phạm Duy, nhạc Trần thiện Thanh,
nhạc Hoàng thi Thơ, nhạc Anh Bằng… Trước khi hát một bản nhạc, người điều khiển
chương trình hay ca sĩ thường giới thiệu tên tác giả và hoàn cảnh tác phẩm được
sáng tác. Việc giới thiệu tác giả và tác phẩm đã trở thành một phần của nền văn
hóa Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi tác giả mỗi khác, mỗi bài nhạc mỗi khác, mỗi ca sĩ
trình diễn mỗi khác, biểu hiện sự phong phú và đa dạng của âm nhạc miền Nam.
Ở miền Nam nhà nào cũng có radio, nhiều
nhà có tivi, có dĩa hát, có máy thu thanh cassette… không có thì nghe ké nhà
hàng xóm. Nhiều ca sĩ, nhiều ban nhạc, nhiều hãng băng dĩa cassette cạnh tranh
phục vụ đại chúng. Từ tờ mờ sáng nhạc vang vọng khắp nơi, đến tối mịt mù, đôi
khi vẫn nghe tiếng nhạc dập dình. Những bản nhạc bolero, rumba, chachacha,
tango dễ nhớ, dễ hát và dễ đi vào lòng người.
Người miền Nam hát bất cứ lúc nào có thể
hát được. Đám cưới, đám hỏi hát hò, đến cả ngày giỗ đám ma cũng tụm năm tụm bẩy
hát cho nhau nghe. Họ hát từ tiền đồn heo hút, hát trong nhà thờ, trong chùa ra
đến góc đường, góc chợ, quán ăn, hát cho nhau nghe và cho chính mình nghe. Họ
quan niệm hát hay không bằng hay hát, họ đồng cảm và đồng sáng tác bằng cách chế
lời đổi nhịp điệu bài hát.
Máu văn nghệ chìm đắm trong tim óc người
miền Nam, trở thành nếp sống, nếp văn hóa Việt Nam Cộng Hòa. Trong tù “cải tạo”
nhạc miền Nam bị cấm, ai hát bị biệt giam đến chết, các tù nhân vẫn hát, hát
cho nhau nghe, hát để gìn giữ báu vật Việt Nam Cộng Hòa.
Nhạc
vàng Bắc Tiến
Những ngày đầu 30/4/1975, không ít người
miền Nam ngạc nhiên khi nghe bộ đội Bắc Việt hát những bài viết về người lính
miền Nam như Rừng Lá Thấp của Trần Thiện Thanh hay Xuân Này Con Không
Về của Trịnh Lâm Ngân. Khác chiến tuyến, nhưng họ hát với tấm lòng của người
lính xa nhà mong muốn chiến tranh chấm dứt để về lại quê hương. Về miền Bắc,
trong ba lô người bộ đội có chiếc cassette nhỏ và chục băng nhạc làm quà. Làng
trên xóm dưới bắt đầu biết đến nhạc miền Nam.
Còn ở miền Nam, các đội cờ đỏ truy lùng
nhạc chế độ cũ. Người yêu nhạc bị mang ra khu phố đấu tố, nhiều thanh niên bị
cưỡng bức đi Thanh Niên Xung Phong, có người còn bị bắt đi cải tạo chỉ vì lén
lúp chơi nhạc vàng.
Đầu năm 1979, chiến lợi phẩm của bộ đội
miền Bắc là những kho cassette và băng nhạc trên đất Campuchia, nhạc vàng lại một
lần nữa tràn ngập miền Bắc. Rồi những radio cassette, những cuộn băng nhạc hải
ngoại được chuyển ra miền Bắc, tiếp tục sự nghiệp Bắc Tiến của nhạc vàng.
Khi ấy Hà Nội đã chuyển hầu hết công an
và cán bộ tuyên giáo vào Nam nên nhạc vàng công khai cạnh tranh với loa phường
và các đài chính thống. Nhạc vàng trở thành món ăn tinh thần cho người dân miền
Bắc, nhất là những người sống ở thành thị. Nhạc vàng theo chân người Việt “xuất
khẩu lao động” sang tận Liên Xô và Đông Âu. Ở đâu có người Việt ở đó có nhạc Việt
Nam Cộng Hòa.
Ở miền Nam sau những cuộc truy quét, nhạc
vàng bắt đầu sống dậy. Nhiều ca sĩ lén lút thu thanh, nhiều quán cà phê hát nhạc
vàng, nhiều đoàn hát “chui” về tận miền quê trình diễn. Ngược lại số người nghe
nhạc đỏ giảm sút rất nhiều, nhất là với những người trẻ muốn quên đi chiến
tranh và cách mạng.
Đến năm 1986, Hà Nội chính thức phải công
nhận nhạc vàng, một danh mục gồm 36 tác phẩm âm nhạc của miền Nam được công
khai trình diễn. Nhiều chương trình văn nghệ nhạc vàng được công khai tổ chức.
Ở hải ngoại các nhạc sĩ tiếp tục sáng tác
tạo ra dòng nhạc vàng hải ngoại. Đến thập niên 1990, băng video Paris By Night,
ASIA, Vân Sơn,… từ hải ngoại gởi về được bà con trong nước nhiệt tình ủng hộ.
Nghị quyết 36 ra đời, Hà Nội chính thức
chỉ đạo phục vụ văn nghệ “đồng bào” hải ngoại. Nhạc vàng được Hà Nội chính thức
nuôi dưỡng. Nhiều ca sĩ nhạc vàng được Hà Nội cung cấp tiền và phương tiện ra hải
ngoại trình diễn. Hà Nội còn chấp nhận một số ca sĩ hải ngoại về nước hát. Các
nhạc sĩ đỏ bị “vắt chanh bỏ vỏ”, nhạc đỏ bị bỏ xó không ai màng tới, đến đài
phát thanh, đài truyền hình Hà Nội cũng phát nhạc vàng.
Nhạc Việt Nam Cộng Hòa sống dậy
Bước sang thời đại YouTube và Facebook,
chỉ cần chiếc máy tính, chiếc điện thoại cầm tay mọi người có thể dễ dàng thưởng
thức kho tàng âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều bạn trẻ mặc đồ lính Việt Nam Cộng
Hòa hát nhạc vàng thu hút hằng triệu người xem.
Nhạc vàng không chỉ giúp giới trẻ tìm hiểu
lịch sử Việt Nam Cộng Hòa, một số bạn trẻ dùng lời ca tiếng hát làm phương tiện
đấu tranh với mong ước phục hồi thể chế tự do. Nhạc vàng còn được sử dụng để phản
kháng làn sóng nhạc Hàn, nhạc Mỹ, nhạc Trung… giữ gìn tình tự dân tộc và văn
hóa Việt Nam. Nhạc vàng được hát khắp nơi từ miền núi xa xăm phương Bắc xuống
Cà Mau tận cuối miền Nam và mọi nơi trên thế giới.
Nhạc vàng đã bị “chôn” nhưng vẫn sống,
ngày càng sống mạnh. 44 năm qua, nhiều thế hệ tiếp nối vẫn yêu quý nhạc miền
Nam, tìm ra sự thật lịch sử và hướng về một ngày đất nước có tự do.
Trong vòng 20 năm Việt Nam Cộng Hòa xây dựng
thành công một kho tàng văn hóa dựa trên triết lý nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Kho tàng này không chỉ thuộc thể chế Việt Nam Cộng Hòa mà đã trở thành một kho
tàng văn hóa Việt Nam.
NGUYỄN QUANG DUY
Melbourne, Úc Đại Lợi, 21/11/2019
(Tác giả gởi blog Thụy
My)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.