(Viet-Studies 30/05/2018) Hiện nay Quốc hội đang bàn về dự án Luật
về ba đặc khu Vân Đồn, Văn Phong và Phú Quốc, còn tôi lại đang viết bài đánh
giá về chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam mà tôi tạm gọi là chính
sách phát triển không chiến lược.
Vì thấy Quốc hội hiện nay có vẻ muốn thông qua nên tôi thấy cần đưa ra vài kết quả có liên quan trong bài đang viết, hy vọng Quốc hội tạm dừng việc thông qua để nghiên cứu và trao đổi thêm về mặt lợi hại, ít nhất là về mặt kinh tế. Đơn giản là để đưa đến quyết định nghiêm chỉnh, bất cứ một dự án luật nào về kinh tế, cơ quan đề xuất mà ở đây là Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng phải trình bày cho dân đánh giá định lượng lợi và hại về mặt kinh tế. Điều này không thấy có.
Đây là một số điều tóm tắt từ dự luật trên:
1.
Điều 33. Chủ tịch đặc khu được cho người nước ngoài thuê đất 70 năm và đặc biệt
99 năm nếu được Thủ tướng đồng ý. Vậy luật này vượt luật đất đai (50 năm) và cũng
cho phép thủ tướng vượt luật đất đai. Điều 126 của luật đất đai hiện nay cho
phép trường hợp đặc biệt tăng lên 70 năm: "Đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn
chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì
thời hạn giao đất, cho thuê đất không quá 70 năm."
2.
Điều 43. Thuế được ưu đãi. Vừa thấp (10%), lại được miễn thuế 4 năm, giảm thuế
50% trong 9 năm tiếp. Chỉ có đầu tư bất động sản là chịu thuế 17%. Cũng
không có thuế nhập khẩu hàng hóa đầu tư. Điều 40 miễn thuế thu nhập cá nhân
trong 5 năm và giảm 50% sau đó. Vậy
thì chính quyền đào đâu ra tiền?
3.
Điều 39. Đặc khu được quyền bội chi không vượt quá 70% ngân sách thu. Như vậy phải
đi vay để chi. Nếu vỡ nợ, ai trách nhiệm?
4. Điều 45: Chủ
tịch đặc khu được quyền cho miễn thuế thuê đất 30 năm.
5.
Điều 46: Người nước ngoài được làm việc dưới 90 ngày và cộng dồn 180 ngày một
năm không cần giấy phép lao động.
6. Điều 47. Chủ tịch đặc khu được giao rất
nhiều quyền: Được ký hợp đồng lao động, tuyển công chức, được quyết định hệ số tiền lương
tăng thêm; ban hành quy chế tiền thưởng thực hiện tại đặc khu và quyền cho miễn
thuế nói ở trên. Và theo điều 36 chủ tịch đặc khu được quyền chọn thầu.
7. Điều 53. Người Việt Nam được phép
vào chơi casino tại điểm kinh doanh casino tại đặc
khu theo quy định của pháp luật về casino.
8. Điều 56. Chỉ cần bỏ ra
110 tỉ
đồng đầu tư (tức là 5 triệu USD) thì được cấp thẻ tạm trú 10 năm.
Tình trạng chung là vì đặt lợi ích nhóm
lên đầu, việc chọn lựa đầu tư nước ngoài và quyết định vay nợ nước ngoài đã
không dựa trên khả năng ảnh hưởng lan tỏa, bỏ qua ngay cả khả năng
sinh lợi, thậm chí bất kể khả năng sinh lợi như trường hợp đầu tư vào Bôxit ở
Tây Nguyên và nhiều dự án điện than hiện nay. Cho nên, dù dựa vào đầu tư
và vốn nước ngoài như thế, năng suất lao động tính theo GDP trên một lao động
tăng thấp, tăng bình quân năm trong thời gian 2000 đén nay chỉ đạt 4.0%.
Biểu 1. Tốc độ tăng năng suất lao động theo năm tính kép
|
|
Năng suất ngành (tính theo tăng
kép giữ hai năm 2016 và 2010)
· Nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản (GTTT trên 1 lao động)
|
4.3
|
· Công
nghiệp và xây dựng (GTTT trên 1 lao động)
|
2.9
|
· Dịch
vụ (GTTT trên 1 lao động)
|
3.1
|
Năng suất lao động của nền kinh tế
(GDP trên 1 lao động) bình quân 2005-2016
|
4.0
|
Nguồn: TCTK: GDP, số liệu giá trị tăng
thêm theo ngành và lao động.
Chú thích: Năng suất lao động cả nên
kinh tế có thể tính bình quân năm từ 2005-2016. Tuy nhiên, không thể tính cho
từng hoạt động vì lý do là TCTK chỉ tính giá trị tăng thêm (GTTT) theo giá cơ
bản kể từ năm 2010 đến 2016 (đúng theo khuyến nghị quốc tế nhằm tách thuế và bù
lỗ sản phẩm, nhằm loại trừ ảnh hưởng của chính sách đến giá trị sản xuất). Tuy
nhiên vì số liệu trước 2010 không được điều chỉnh nên không thể so sánh với số
liệu trước đó. Chính vì thế nếu so sánh, mà không có hiểu biết về ý niệm dùng
trong thống kê kinh tế, ta thấy điều vô lý xảy là năng xuất công nghiệp giảm
16% năm 2010 và dịch vụ giảm 13% cùng năm, chỉ vì thuế sản phẩm năm 2010 bị
loại. Để nghiên cứu năng suất lao động theo chuỗi thời gian dài hơn,
TCTK cần tính lại số liệu từ trước năm 2010 theo giá cơ bản.
[1] Trong một bài viết trên Kinh tế Sài Gòn
(2018), tác giả cho rằng mức tăng của GDP và dịch vụ công là cao hơn thực chất
ít nhất 0.36% nên năng suất thực con thấp hơn số liệu trong biểu 2 (coi Tăng trưởng GDP: Thống kê
cao hơn thực tế). Tuy nhiên ở đây tác
giả vẫn dùng thông tin của TCTK.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.