Hình ảnh thị xã Cao Bằng bị quân Trung Quốc bắn phá tan hoang (Ảnh tư liệu: Trần Mạnh Thường) |
(VTC 17/02/2018) Gần
40 năm sau vụ thảm sát man rợ của những tên lính xâm lược ô hợp Trung Quốc ở
Tổng Chúp (Cao Bằng), những ký ức đau thương vẫn còn nguyên trong tâm trí người
từng chứng kiến.
Nước
mắt tháng Hai
Dường
như năm nào cũng vậy, cứ đến sáng 17/2, ông Nông Văn Bàn ở xã Đức Long (Hòa An,
Cao Bằng) lại mang chai rượu, ít hoa quả, sang vách núi cách nhà mình không xa
lắm, đặt xuống và ngồi lặng lẽ.
Chỗ
ngồi của ông Bàn giờ đây chỉ còn là đám lách um tùm. Nhưng 39 năm về trước, đó
là tổ ấm của cả gia đình ông bao gồm cả bố mẹ, các em. Buổi sáng định mệnh ấy
đã lấy đi tất cả, chỉ còn mỗi mình ông sống đơn độc trên đời.
“Năm đó, tôi đi bộ đội đóng ở Quảng
Ninh, chỉ nghe là sáng 17/2/1979, quân Trung Quốc ồ ạt đánh qua cửa khẩu Đức
Long, biết rằng nhà mình nằm trong vòng vây của giặc, nhưng làm sao tôi có thể
mọc cánh mà bay về được”, ông Bàn
nghẹn ngào.
Lúc
tìm về thì ngôi nhà cũ chỉ còn là đống gạch vụn vỡ nát. Hỏi ra ông Bàn mới biết,
chỉ mới ngay loạt pháo đầu tiên của quân Trung Quốc bắn sang, viên đạn đã trúng
căn nhà ông, không ai thoát chết.
Xã
Đức Long vốn nằm ngay sát biên giới Việt - Trung, nên khi quân xâm lược bất ngờ
tràn qua, chỉ có mấy người kịp chạy. Lúc chúng rút đi hết, những ai còn sống
sót tìm về thì thấy làng bản gần như chả còn gì.
Lính
Trung Quốc đánh sang Việt Nam đã dùng chính sách "3 diệt" để khủng
bố, đó là giết những cán bộ nhà nước, những người già, trẻ em không kịp chạy
trốn, hay thả thuốc độc xuống nguồn nước. Mục đích của chúng là không để cho
bất cứ ai có thể quay trở về biên giới sinh sống như trước.
Chỉ
có một mó nước cuối bản là không bị bỏ thuốc độc, nhưng cũng bị quân xâm lược
đẩy cái cối giã gạo bằng đá to lăn xuống đè ngay mạch nước nguồn. Đợt ấy, ông
Bàn cùng với những người còn sống sót quay trở về, dùng xà beng hì hục cạy mãi
cái cối đá mới hở ra chút.
Nước
chảy, nhưng có mùi lạ, mọi người mới kinh hoàng phát hiện dưới cái cối xay có
một xác người. Có lẽ, gặp lúc hết thuốc độc để rải xuống khi phát hiện cái mó
nước, nên chúng đã tiêu diệt nguồn nước của dân bản bằng cái phương pháp ghê
rợn ấy.
Nhà trẻ thị xã Cao Bằng chỉ còn là đống đổ nát. (Ảnh tư liệu: Trần Mạnh Thường) |
Nỗi đau ở Tổng Chúp
Tổng
Chúp (xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng) giờ là khu vực rậm rạp, không có đường vào,
phải băng qua hai con suối cùng vô số lau lách, hoang vắng lắm.
Thế
mà cứ vào những ngày này tháng Hai, lại có một người đàn ông thỉnh thoảng tìm
đến, ngồi thẫn thờ trước tấm bia rêu phong đề dòng chữ: “Vụ thảm sát tại Tổng Chúp, xã Hưng Đạo huyện Hòa An. Quân Trung Quốc
xâm lược dùng cọc tre, búa bổ củi đập chết 43 phụ nữ và trẻ em quăng xuống
giếng nước”.
39
năm trước, bà Tô Thị Yến - mẹ của ông Đinh Ngọc Tinh (khu Đức Chính, xã Hưng
Đạo) cũng hòa lẫn trong đám người chạy loạn khi quân Trung Quốc đánh tới TP Cao
Bằng.
Bà
Yến chạy cùng với nhóm công nhân trại lợn Đức Chính. Nhưng nghe kể lại là chạy
đến cây số 5 thì đã gặp phải tốp lính Tàu. Chúng không bắn mà trói nghiến tất
cả lại, giải về Tổng Chúp.
Hết
chiến tranh, ông Tinh trở về thì mới hay mẹ mình là nạn nhân đầu tiên của vụ
thảm sát khủng khiếp 43 người đó. Bà Yến được vớt lên khỏi giếng cổ trong tình
trạng bị bịt mắt, trói tay, bị gậy tre quân bành trướng đập thẳng vào đầu.
Cũng
những ngày tháng 2/1979, bà Nông Thị Dén ở thị trấn Đông Khê (Thạch An, Cao
Bằng) chỉ biết ôm lấy đứa con cắm đầu cắm cổ chạy loạn khi pháo địch cứ câu
sang “như bom Mỹ rải thảm”, rồi lính
Trung Quốc tràn ngập thị trấn.
Đêm
đến, dù đói khát, rét mướt và lo sợ, mọi người vẫn trốn, bấm tay nhau ra hiệu
đi thật khẽ, cố tìm đường đi sâu vào nội địa. Đúng lúc đấy thì đứa con trai mới
hai tháng tuổi lại ọ ọe, bà Dén loay hoay tìm mọi cách để nó không khóc nữa,
nhưng đành chịu.
Từ
trong bản gần đó, quân địch có vẻ như nghe thấy tiếng trẻ con khóc, chúng ngừng
nói để nghe ngóng. Hết cách, bà Dén đành bịt chặt mồm và mũi của thằng bé để nó
không phát ra tiếng kêu nữa. Thằng bé dãy dụa, bà cố ôm chặt con và đi thật
nhanh để vượt qua bản với hy vọng con mình không bị ngạt.
Qua
được bản thì đứa bé đã nhũn, nó mới được hai tháng tuổi làm sao chịu đựng được.
Trong đêm tối, bà Dén ôm chặt lấy con mà không nấc lên được tiếng nào, đoàn
người vẫn lặng lẽ bước đi. Một ngôi mộ cỏn con được đắp vội bên đường.
Tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam trên toàn tuyến biên giới lúc này khoảng 50.000 quân, chủ yếu bộ đội địa phương, công an vũ trang và dân quân tự vệ. (Ảnh tư liệu: Trần Mạnh Thường) |
Ký ức vẫn còn nguyên vẹn
“Tại sao lại có chiến tranh, chúng tôi
chỉ là dân thôi mà, sao họ lại giết chóc như thế?”, với bà Nông Thị Nương (Trùng Khánh, Cao Bằng), 17/2
năm đó, lúc Trung Quốc bắn pháo sang, bà mới 15 tuổi, nhờ chạy vào khu rừng gần
đó nên thoát chết.
Nhà
cửa, đồ đạc vẫn còn để nguyên như vậy, trong chuồng lợn gà vẫn ủn ỉn, chú chó
và con mèo vẫn nằm trông nhà mà không biết là sẽ phải xa chủ mãi mãi.
Lúc
về tới thành phố Cao Bằng, mọi người cứ tưởng bình yên nên tụ tập lại, bàn tính
sẽ kéo về Bắc Kạn lánh nạn, chờ tình hình yên ổn mới trở về nhà. Ai ngờ đoàn người
mới đi được một quãng thì lại rơi vào bẫy phục kích.
Lính
Trung Quốc cứ thế lia thẳng đạn vào đám đông, kèm theo những thi thể đổ gục
xuống như cây chuối. Tất cả bỗng chốc tán loạn, bà Nương cắm đầu cắm cổ chạy
cho đến khi người thân trong gia đình không còn ai bên cạnh mình.
Bà
sống sót nhờ chui sâu vào trong hang đá chỗ đèo Tài Hồ Sìn. Ngày ngồi im trong
hang, đêm mò ra hái lá rừng, đào củ sắn, củ mài. Mãi cho đến khi nghe quân
Trung Quốc rút, bà mới tìm về, thì bản làng của bà chỉ còn là đống ngổn ngang,
vết cháy xém cùng xác người vương vãi khắp nơi.
Và
còn nhiều trường hợp như và Nương nữa. Với những người đã trải qua ký ức kinh
hoàng gần 40 năm trước, thì ký ức ngày 17/2/1979, chiến tranh đồng nghĩa với
tàn phá, với đau thương mất mát, là cảnh quân địch tràn vào và đốt hết, giết
hết, sạch sẽ từng ngôi nhà.
Chúng
ốp mìn nổ tung từng cột điện, rồi sục sạo khắp nơi. Những xác người cháy đen,
những tiếng khóc la ai oán vang lên khắp nơi. Giờ hòa bình trở lại, hận thù đã
cởi bỏ, họ chỉ mong một cuộc sống yên ổn, không bao giờ tái diễn một sự việc
đau buồn như thế nữa.
“Ngày 5/3, Bắc Kinh tuyên bố đã thực
hiện được mục tiêu ban đầu đề ra và rút quân. Vậy mục tiêu ban đầu của chúng là
gì? Nếu ngon ăn thì tại sao không thể tiến qua nổi đèo Tài Hồ Sìn, thẳng xuống
hướng nam luôn?”, ông Nguyễn Văn
Dịch, năm nay đã 80 tuổi (xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng) tự đặt câu hỏi.
Lúc
quân Trung Quốc sang xâm lược, ông Dịch cũng là dân quân, nhưng súng đạn chả có
nhiều, chỉ biết đánh du kích, may mắn thần kỳ mới giúp ông thoát chết và chứng
kiến những tội ác khủng khiếp ấy. Ông Dịch vẫn luôn chờ mong sự xuất hiện của
bộ đội chính quy Việt Nam
Cho
đến lúc hết sạch cả súng đạn, quân địch tràn ngập Cao Bằng, đông như kiến cỏ,
không còn cách nào khác, ông Dịch mới tìm đường chạy về Bắc Kạn. Đầu tháng Ba,
ông cùng những người chạy loạn mới lần đầu tiên được thấy bộ đội chính quy “xịn” hành quân ra chiến trường, lên
thẳng hướng bắc.
“Thật hùng dũng, anh nào anh nấy trông
thật phong sương từng trải, áo rằn ri, súng đạn đeo đầy người… rồi từng đoàn xe
kéo pháo chạy qua mà cách xa hàng mấy km đã nghe tiếng gầm của chiến xa kéo
pháo.
Tôi cũng mang máng thấy nói là kéo cả
pháo 175mm và pháo 105mm, rồi xe tăng chạy trực tiếp lên tuyến trên, xích sắt
nghiền nát cả mặt đường...
Lúc đó mọi người đều khẳng định, bọn
Tàu biết ta đem quân tinh nhuệ vừa đánh cho Pôn Pốt phải chạy re kèn sang Thái
Lan, ra Bắc để quyết dạy lại cho chúng một bài học, nên phải vội vã ra lệnh rút
quân, chứ không thì còn nhiều ma bành trướng phải vơ vẩn trên đất Việt Nam
nữa”, ông Dịch tâm sự.
Quân
Trung Quốc rút, Cao Bằng chẳng còn lại gì ngoài những đống đổ nát. Chiến tranh
đã qua, cuộc sống mới có nhiều thay đổi, đã yên bình được 38 năm. Ở mảnh đất
phên dậu này, có những con người mới chuyển đến. Có thể họ không biết hay không
còn nhớ nhiều đến những ngày kinh hoàng 38 năm trước.
Nhưng
khi chúng tôi đi dọc miền biên viễn này, vẫn không thiếu những cơn đau, những
tiếng thở dài hay những giọt nước mắt khi nhắc đến ký ức tháng Hai. Có những
căn nhà nhỏ chưa bao giờ có được bữa cơm trọn vẹn. Chiến tranh đã lùi xa từ
lâu, gần 40 năm nhưng nỗi đau vẫn còn nguyên vẹn đó.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.