Xe tăng Trung Quốc bị bắn hạ tại Cao Bằng, sáng 17.2. (Ảnh: Mạnh Thường) |
(Dân Việt 17/02/2018) Cho đến nay, đã 39 năm kể từ ngày 17.2.1979, khi 60
vạn quân bành trướng Trung Quốc thực hiện cuộc tấn công xâm lược trên dọc tuyến
biên giới hơn 1.200km phía Bắc nước ta, nhiều học giả đều khẳng định: Hành động
lúc đó của nhà cầm quyền Trung Quốc là vô cùng phi nghĩa, bởi họ đã gây ra một
cuộc chiến làm hàng vạn người vô tội chết và bị thương.
Theo
Thiếu tướng Lê Văn Cương, gần 40 năm nhìn lại, chúng ta có đủ thời gian và cứ
liệu lịch sử để khẳng định: Nhà cầm quyền Trung Quốc lúc đó đã vô cùng hoang
tưởng khi đột ngột tấn công Việt Nam vào ngày 17.2.1797. Đây hoàn toàn là
một cuộc xâm lược chứ không phải cuộc chiến phản vệ mà Trung Quốc từng rêu rao.
Giải nguy cho Pol Pot
Để giải mã nguyên nhân cuộc
chiến tranh phi nghĩa của Trung Quốc thực hiện vào mùa xuân 39 năm trước dọc
tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, chúng tôi đã có một buổi trò chuyện cùng
Thiếu tướng Lê Văn Cương - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lực của Bộ
Công an và cùng lật đi lật lại câu hỏi: Vì sao Trung Quốc tiến hành xâm lược
Việt Nam vào tháng 2.1979?
Thiếu tướng Lê Văn Cương |
Sau nhiều năm nghiên cứu và
trải nghiệm thực tế, tướng Cương đã tìm ra những câu trả lời không chỉ thuyết
phục những học giả trong nước mà còn khiến cả những người Trung Quốc không thể
không thừa nhận về một cuộc chiến phi nghĩa.
Tướng Cương khẳng định: Một
phần nguyên nhân thực tế của cuộc chiến này chính là nhằm giải nguy cho tàn
quân Khmer Đỏ của Pol Pot. Khi đó, quân tình nguyện Việt Nam đang giúp đỡ nhân
dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng do Pol Pot gây ra. Thực chất Khmer Đỏ
chính là một sản phẩm của Trung Quốc.
Trong cuốn “Người tù của Khmer Đỏ” xuất bản bằng
tiếng Pháp năm 1987, Cựu hoàng Campuchia Norodom Sihanouk đã viết: “Từ năm 1956, những kẻ cầm đầu Khmer Đỏ hàng
năm đều sang Trung Quốc nhận chỉ thị và viện trợ. Khmer Đỏ đã được Trung Quốc
nuôi. Bọn chúng sử dụng vũ khí Trung Quốc, chiến thuật quân sự của Trung Quốc
với mục đích vừa đánh Mỹ vừa đánh Việt Nam từ 1955 - 1975, sau đó gây ra nạn
diệt chủng làm 2,7 triệu người Campuchia thiệt mạng, quấy nhiễu biên giới Tây
Nam tiếp giáp với Việt Nam”.
Nhận thấy tình hình hết sức
nguy hiểm, quân tình nguyện Việt Nam đã giúp đỡ nhân
dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng của quân Khmer Đỏ.
Theo tướng Lê Văn Cương, để
cứu nguy cho tay sai của mình, Trung Quốc đã đơn phương và bất ngờ thực hiện
cuộc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta với lý do “phát động cuộc chiến tranh phản vệ”.
Thực tế khi đó, quân và dân Việt Nam chưa hề xâm phạm
một xăngtimét vuông nào lãnh thổ Trung Quốc ở phía Bắc.
Ngoài ra, tháng 1.1979, ông
Đặng Tiểu Bình - lãnh tụ Trung Quốc khi đó sang thăm Mỹ. Trong cuộc gặp với
Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Jimmy Carter tại Nhà Trắng, ông Đặng Tiểu Bình đã
khẳng định Trung Quốc sẽ đảm nhận vai trò làm NATO của phương Đông, đề nghị Hoa
Kỳ kết hợp với Trung Quốc để đánh Nga Xô và Việt Nam.
“Trung
Quốc làm điều này đã gây được sự hài lòng thích thú của giới diều hâu của nước
Mỹ vì họ vừa thua trong cuộc chiến tranh với Việt Nam. Không chỉ trực tiếp tiến đánh nước ta năm 1979, sau
đó Trung Quốc còn kết hợp chặt chẽ với Mỹ bao vây cấm vận nước ta tiếp theo 12
năm nữa gây bao khó khăn cho nền kinh tế nước ta”, tướng Cương phân tích.
Cũng theo ông Lê Văn Cương,
sau chuyến đi này, Hoa Kỳ đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Trung Quốc
bắt đầu nhận được nhiều sự viện trợ về kỹ thuật, công nghệ và tiền bạc của Hoa
Kỳ. Họ đã tranh thủ nắm bắt thời cơ để vươn lên vị trí thứ 2 thế giới, chỉ sau
Hoa Kỳ.
Những trận đối đầu khốc liệt
Khi quân bành trướng Trung
Quốc bất ngờ tiến hành cuộc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta
với một lực lượng quân hùng hậu, phía Việt Nam lúc đó chỉ có lực
lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích. Nhưng những trận đánh đầu tiên đối
mặt với quân xâm lược, quân và dân các tỉnh phía Bắc đã chiến đấu vô cùng anh
dũng, khiến quân xâm lược gặp phải những tổn thất nặng nề.
Ngay khi Trung Quốc tấn công
nước ta, Lạng Sơn đã là một trong những địa phương đầu tiên phải hứng chịu sự
tàn phá nặng nề.
Bà Hoàng Thị Hà, năm nay 63
tuổi, nguyên giáo viên Trường Dân tộc nội trú Lạng Sơn nhớ lại: "Tuy được tuyên truyền trước là Trung
Quốc sớm muộn gì cũng sẽ đánh Việt Nam, nhưng khi nghe tiếng đạn pháo vào
khoảng 5h sáng 17.2.1979, lúc đầu tôi cứ tưởng là tiếng sấm. Nhưng chỉ ít giây
định thần lại, chạy ra ngoài mới thấy những quầng lửa sáng bùng lên".
Cả thị xã Lạng Sơn nhanh
chóng chuyển sang trạng thái chiến tranh. Những đơn vị bộ đội, công an vũ
trang, dân quân tự vệ đã lập tức chiến đấu ngay, còn người dân khẩn trương tìm
nơi trú ẩn hoặc sơ tán ra khỏi vùng chiến sự.
Nhắc đến những ngày đương đầu
với quân Trung Quốc tại Lạng Sơn, không thể không kể đến trận đánh tại pháo đài
Đồng Đăng. Người trực tiếp chiến đấu tại
pháo đài này là Đại tá - Anh hùng Nông Văn Pheo, năm nay 61 tuổi. Ông may mắn
sống sót sau trận đánh vô cùng chênh lệch về lực lượng với quân xâm lược.
“Lúc
đó tôi mới là binh nhất, được giao giữ súng trung liên bảo vệ hướng chính diện
của pháo đài. Quân địch tổ chức hàng chục cuộc tấn công vào pháo đài trong mấy
ngày liên tục. Đồng đội tôi rất nhiều người bị thương vong, nhưng tất cả bảo
nhau kiên quyết bám trụ tại pháo đài. Sau 3 ngày đêm liên tục đối mặt với quân
địch, vừa đói vừa khát, chúng tôi phải tìm cách vượt vòng vây, tìm nước để uống
cũng như kiếm đồ tiếp tế cho đồng đội. Nhưng địch quá đông, chúng từng bước tấn
công vào pháo đài, thả lựu đạn và dùng xăng để đốt cháy pháo đài”, Đại tá Pheo nhớ
lại.
Để bảo toàn lực lượng, Đại tá
Pheo và một số đồng đội đã phải rút lui khỏi pháo đài tìm đường về đơn vị tiếp
tục chiến đấu. Theo thống kê, sau 3 ngày đêm chiến đấu anh dũng, Đại tá Nông
Văn Pheo đã trực tiếp tiêu diệt 70 tên địch, góp phần gây tổn thất nặng nề cho
quân địch.
Nhưng đau xót thay, sau khi
pháo đài Đồng Đăng thất thủ, quân Trung Quốc đã sát hại hàng trăm đồng bào ta.
Pháo đài trở thành ngôi mộ tập thể lớn nhất trong chiến tranh biên giới của
nhân dân Lạng Sơn.
Trước sự tấn công ồ ạt của
quân Trung Quốc, Đồng Đăng và thị xã Lạng Sơn đều bị thất thủ. Quân xâm lược đi
đến đâu là tiến hành đốt phá nhà xưởng, công sở, kho tàng bến bãi tới đó. Thị
xã Lạng Sơn và nhiều địa phương khác gần như bị phá hủy hoàn toàn sau khi quân
Trung Quốc rút đi.
Phản kích
Ở Cao Bằng, hướng tiến công
chính của địch là ở Thông Nông - Hà Quảng và Phục Hòa - Đông Khê. Nhờ huy động
một lực lượng áp đảo nên ngay từ những ngày đầu, kẻ địch đã có nhiều mũi quân
thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam, chia cắt và gây
rối loạn hệ thống chỉ huy của ta.
Trên hướng Hà Quảng, các trận
đánh của Trung đoàn 246, Sư đoàn 346, Tiểu đoàn 6 Hà Quảng, Đồn biên phòng Sóc
Giang, Nậm Nhũng… cùng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ diễn ra suốt 4 ngày,
từ 17 đến 20.2 trên các chốt Cốc Ngựu, Cốc Nhu, Cốc Vường, điểm cao 505, Trúc
Long-Địa Lan, Nà Xác, Trường Hà… Những trận đánh này đã chặn đứng hướng tiến
công của địch ở khu vực cửa khẩu Sóc Giang.
Bị tổn thất nặng nề, ngày
22.2 quân Trung Quốc làm đường cho xe tăng vượt biên giới ở khu vực mốc 109,
theo đường Pác Bó - Nà Mạ - Đôn Chương đánh vu hồi vào sau lưng và bên sườn
trận địa ta, kết hợp với tấn công chính diện theo hướng cửa khẩu Bình Mãng -
Sóc Giang.
Trung đoàn 246 đã chiến đấu
vô cùng anh dũng, nhưng trước sức ép của quân địch, lại bị bao vây và cắt đường
tiếp tế nên đã phải rút khỏi Sóc Giang lên khu vực thung lũng núi giữa Hà Quảng
và Thông Nông tiến hành đánh du kích. Địch chiếm được Sóc Giang và tiếp tục
phát triển xuống phía nam Hà Quảng.
Từ ngày 19.2, địch bắt đầu áp
sát thị xã Cao Bằng từ nhiều hướng. Cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã diễn ra suốt
nhiều ngày nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch, đến ngày 24.2 đối
phương chiếm được thị xã Cao Bằng và có những mũi vu hồi đánh lấn xuống khu vực
đường số 3, Khâu Đồn, đèo Cao Bắc. Có những mũi địch thọc sâu vào lãnh thổ Việt
Nam 50-60km (cầu Tài Hồ Sìn). Nhiều đơn vị của ta bị tổn thất, rơi vào thế bị
chia cắt, bao vây cả 4 mặt.
Ngày 26.2, Quân khu 1 quyết
định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Cao Bằng do Đại tá Đàm Văn Ngụy, Phó tư lệnh
Quân khu đứng đầu. Ngày 28.2, Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh cho Trung đoàn 677 và
Trung đoàn 567 vượt vòng vây rút về phía sau để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị
đánh phản kích.
Trước tình hình căng thẳng,
Quân khu 1 gấp rút điều động Trung đoàn 852 và 183, tiểu đoàn pháo tầm xa 122mm
của Lữ đoàn 675, các tiểu đoàn bộ đội và tự vệ phía sau lên phối hợp với các
đơn vị tại chỗ tổ chức phòng tuyến mới ở phía nam cầu Tài Hồ Sìn, đường số 3,
mỏ thiếc Tĩnh Túc…
Lực lượng vũ trang ta đánh
lui các đợt tiến công của quân Trung Quốc từ 20 đến 23.3, sau đó phản kích đẩy
địch về khu vực cây số 5 và ngã ba Khâu Đồn, đồng thời bao vây một bộ phận mũi
vu hồi của địch ở Nguyên Bình.
Ngày 1.3.1979 trên mặt trận
Cao Bằng, Sư đoàn bộ binh 311 gồm Trung đoàn bộ binh 169, 529, 531 bộ binh và
Trung đoàn pháo binh 456 được thành lập. Tuyến phòng ngự thứ hai được hình
thành từ Tài Hồ Sìn đến Ngân Sơn. Chiến sự diễn ra quyết liệt trên khắp địa bàn
tỉnh.
Sư đoàn 311 tổ chức cắt đường
số 4, ngăn chặn cơ động tiếp tế của đối phương. Các tiểu đoàn đặc công 20 và 45
luồn sâu vào sau lưng địch, phối hợp với dân quân tự vệ tổ chức nhiều cuộc tập
kích, phục kích gây cho quân xâm lược những thiệt hại nặng nề.
Ngày 5.3, chính quyền Bắc
Kinh tuyên bố rút quân khỏi toàn tuyến biên giới phía Bắc sau khi “đã dạy cho Việt Nam một bài học”. Hai ngày sau khi Bắc Kinh
tuyên bố rút quân, ngày 7.3 quân Trung Quốc bắt đầu rút khỏi Thông Nông, Trà
Lĩnh, vừa đi vừa tàn phá các khu vực nằm trên đường di chuyển của chúng.
Trước tình hình trên, cùng
ngày hôm đó Bộ tư lệnh mặt trận hạ lệnh chuyển sang phản kích, dùng pháo binh
bắn phá đội hình hành quân, các điểm tập kết người và xe cơ giới của địch...
Trước áp lực tiến công của ta, nhiều đơn vị Trung Quốc vội vã rút chạy bỏ lại cả
xe cộ, vũ khí và thương binh tử sĩ. Ngày 14.3, ở Minh Tâm (Nguyên Bình), một
đại đội chủ lực địch bị lực lượng địa phương của ta vây hãm đã phải hạ súng đầu
hàng vô điều kiện.
Ngày 15.3, quân Trung Quốc
rút khỏi thị xã và huyện Hòa An; ngày 16.3 rút khỏi Trùng Khánh, Quảng Hòa và
Thạch An; ngày 17.3 rút khỏi Trà Lĩnh; ngày 18.3 rút khỏi Hà Quảng và Thông
Nông. Đến đây, chiến sự trên mặt trận Cao Bằng tạm thời lắng xuống.
Theo công bố chính thức, trong một tháng chiến đấu trên hướng này các
lực lượng vũ trang và nhân dân Cao Bằng đã loại khỏi vòng chiến 18.000 quân
Trung Quốc, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn địch, phá hủy 134 xe
tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, giữ kỷ lục về số xe tăng, thiết giáp tiêu
diệt được và số tù binh bắt sống.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.