(DânLàm Báo 01/10/2012) - Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của
ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn
sống sót sau Tết Mậu Thân.
Như là tiếng kêu oan
cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi
cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung. Thay cho tất cả những ai bị
sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại Việt Nam không có cơ hội để
nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng CSVN, và bè lũ khát máu
giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan
Trinh...
Năm 1968, tôi đang là
sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết
chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán
từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong Bệnh Viện Trung
Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh
viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng
bệnh nội thương... thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm. Ca
sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9
giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi
được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ. Hai tuần trước tết, toán của tôi được
chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca
đêm. Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.
Thường thì mấy anh em
tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn
cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn
bè…
Sau bữa cơm tối mồng
một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới bệnh viện,
và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết phòng
cấp cứu hơi vắng. Chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên
phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một
ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân
mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì
bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần.
Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí
bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc
không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng
là thành phố Huế và bệnh viện bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3-4 giờ
sáng, bất thần không biết tứ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào
phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen,
súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số
người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số
thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món
nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang
tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong bệnh
viện, rồi tiếng thứ hai, thứ ba... rớt ngay con đường phía trước cổng chính bệnh
viện, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng
nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu
tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ
tứ bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả
hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là
cha Trung, tuyên úy của bệnh viện. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ
chạy về phía tôi.
Nét mặt cha cũng thất
thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “Con
ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “Từ phòng
cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của bệnh viện và
cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà Sơ dòng áo trắng và
vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong
số đó có Sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeanne
d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông
nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm
Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà
Sơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng
tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc
được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở
đó.
Sau khi đám người xưng
là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo
nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn Việt Cộng (VC) nào nữa, hay họ đang
lẩn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột
gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm
Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không
được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy Sơ đi đã, khi mô
có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới,
cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an
tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ
đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông
lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn
gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ
bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…
cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về
tìm gia đình.Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu, tôi
chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui
không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần
vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run,
hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng
vũng, Không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá
sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt
hải từ cổng sau BV chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải,
anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên
An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói
không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn
thân run rẫy, tôi khuỵu xuống.Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn
hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV.
Hai đứa tôi run rẫy ngồi sát vào nhau.
Lát sau, tiếng được
tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi
trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam) nhưng rồi đêm qua có mấy
sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa
người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi
không còn nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa
đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải
cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường
trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không
biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại
tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh
hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ
bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn
chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP) và Nguyễn thị
Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn
với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với
Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ,
tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi
tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP
nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị
giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe
Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn
không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được
một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.
Vừa vô tới giảng đường
thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô
sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay
đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân
trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy.
Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong
đó.
Nghe anh Hải bị bắn
trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn Khoa
tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu.
Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể
trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vùa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn
sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân
vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi,
thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà
không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới
trường trung học Jeanne d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với
một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan,
Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con
Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải
về nhà rồi em trở lại đi… tải thương!
Phan không trả lời Văn,
hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng
Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không
hề biết mặt HPNP mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi
còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là
những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh
viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống
đường” của những năm trước.
HPNP to nhỏ gì với
những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải
về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thìVăn thấy một chiếc
xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeanne
d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về
phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng
tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài
trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.
HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau
là mi chết! Văn run rẫy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi
hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho
Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quảng
đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm
ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để
cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường
Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác
người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói
khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi rán sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng
hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi
nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy
chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô
trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy
chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhã đạn xuống,Văn nói như reo bên tai tôi,
Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên
lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực
thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá
nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại nồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh
đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ
được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy
Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn,
thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi
trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy
bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có
tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ
tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài.
Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi
và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì
bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi
thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn
Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy
nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép
râu, mang súng.
Súng nổ tư bề mà sao
không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp
nơi.
Trên đường Hàm Nghi,
Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong
nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt
đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết… Bộ
đội ngoài Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây
giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến
răng, cúi mặt, lầm lũi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở
số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi, không
được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi
hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội
tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết
mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị
là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác
anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ
Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi
đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng
tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy
vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng
ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe
tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm
tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được,
tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về
được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi
đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát
được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá
mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô
giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn
thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà
ra nông nổi ni…
Chúng tôi đem Hải vào
nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang
trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp
trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua
cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc
phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc
đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở
trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân
người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào
đến.
Thấy Phan bước vô, mặt
Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó
ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng
Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt
không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết
răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi
thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở
nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên
khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng
ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi
kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không
xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy
mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi
run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp
tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi
mô.
Thằng Phan càng la lớn,
tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti. Phan xô tôi té
xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba… Lập
tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau
xuống, để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại giữ
cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm
cách tuột xuống,thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi
chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nỗ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ,
máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét
thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu,
nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng
khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván. Anh Văn
ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người
tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn
trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng
Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh
Kính.
Bắn ông tôi xong chúng
kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi
khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của
ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lạy, tôi gọi, tôi gào,
không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu
con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra
từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi.
Không biết bao lâu thì
tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết
đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để
ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là
bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của
ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ
ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh
tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho
tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi
hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào.
Ngày cũng như đêm ngồi rủ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không
còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy,
mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra
nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi.
Bác Hậu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan
trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng
nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã
bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối bộ đội Bắc
Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin họ đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và
ba người anh tôi. Họ bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ
huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc
lóc năn nỉ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào bốn huyệt.
Họ không cho. Họ phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một
lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó
nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn
trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội
khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi
kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong
nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân
yêu của tôi. Nằm trong buồng ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuốc xẻng
đang đào đất. Tâm rí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở
đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người
được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu
gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn
ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn
thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người
tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy
thằng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội
tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu,
bứt tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi!
Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn
bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như
rứa… Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa
nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người
để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi
nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu
không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ
Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nĩ tôi rán ăn uống
thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn
tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo
gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã
thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập,
bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi
theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu.
Có điều tôi lấy làm lạ,
trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh
nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn. Người ta nói với nhau,
khi mô mà có mọc-chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn
đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại. Vì vậy người ta cứ chạy bất
kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội
nghiệp của xứ Huế, thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân
ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng
về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị
phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi
trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ
tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú
Lương.
Sau khi Huế được giải
thoát, ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi. Tang
lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình
anh Văn đồng ý cho anh Văn đươc nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng
với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ
khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi
quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại
nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần đường rầy xe lửa) thì bán cho
ai đó tôi không rõ.
Thưa Quý Vị,
Đó là những cái chết
oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với
muôn ngàn đau dớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều
người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế.
Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh
viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những
người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác
khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng Tư đen
75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của CSVN ác độc, vô luân. Ba tôi và
những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù
CS.
Đã 40 năm qua, những
vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những
cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy
nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như sau những ngày mất
nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người thân yêu trong Gia
đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Việt
Gian Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu
thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm
nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện
truyền thông khi cần thiết.
Xin trình ông tên tuổi
ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70
tuổi.
Ba người anh: Nguyễn Xuân Kính,
sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên
luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn
Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn
Khoa, bạn của anh Hải tôi.
Bài viết này do tác giả viết
vào mục phản hồi trong bài Những con tắc kè
ảo vọng của anh Hoàng
Thanh Trúc. Dân Làm Báo xin phép tác giả được đăng lại thành một
bài riêng.
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/01/mau-than-hue-cau-chuyen-cua-nguyen-thi.html
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.