Tôi
đọc cho con gái chép một bài viết nhỏ này, xin gửi tới bà con bạn bè thương
mến, những ai yêu mến, quen biết và quan tâm đến tôi. Còn những kẻ luôn đem tôi
ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta, tôi
không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài viết này không dành cho
họ.
Năm
nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi
đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu
cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có một điều
nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là câu chuyện Mậu Thân 1968.
Vậy xin thưa:
1.
Mậu Thân 1968 tôi không về Huế. Tôi, TS Lê Văn Hảo và bà Tùng Chi (những người
lên chiến khu trước) được giao nhiệm vụ ở lại trạm chỉ huy tiền phương- địa đạo
Khe Trái ( Thuộc huyện Hương Trà- tỉnh Thừa Thiên)- để đón các vị trong Liên
Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế như Hòa thượng Thích
Đôn Hậu, cụ Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm…lên chiến khu. Mồng 4 tết tôi
được ông Lê Minh (Bí thư Trị-Thiên) báo chuẩn bị sẵn sàng về Huế. Nhưng sau đó
ông Lê Minh báo là “tình hình phức tạp” không
về được. Chuyện là thế. Tôi đã trả lời ở RFI, Hợp Lưu, Báo Tiền Phong chủ nhật…
khá đầy đủ. Xin không nói thêm gì nữa.
2.
Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” trả lời phỏng vấn với
tư cách một nhân chứng Mậu Thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
Tôi
xác nhận đây là link clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn:
Để
chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất - “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài
chuyện ở Huế Mậu Thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại
cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể
chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã
nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà
ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu ...Nhất là những
ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”.
Chi
tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà
là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng
xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.
Cũng
trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo
vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã
nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự
ngụy biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu
Thân 1968.
Tôi
đã nói rồi, nay xin nhắc lại:
Điều
quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế,
đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về
những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành
động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai
lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan
điểm chiến tranh cách mạng.
3.
Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước họa cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm
tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống
cộng cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh.
Tôi
xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm nói trên, xin ngàn lần xin lỗi.
HOÀNG
PHỦ NGỌC TƯỜNG
- Đôi lời của Nguyễn Quang Lập:
Tôi
vốn là em kết nghĩa của chị Lâm Mỹ Dạ năm 1975, mặc nhiên là em kết nghĩa của
anh Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ 1989-1992 tôi làm phó cho anh Tường, anh em gắn bó
với nhau cho tới khi Tạp chí Cửa Việt bị ông Trần Hoàn cho tạm đình bản, anh
Tường về Huế, tôi ra Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi luôn coi anh Tường như người
anh, người thầy, gắn bó không rời với anh và gia đình anh.
Nói
vậy để biết tôi và anh Tường rất hiểu nhau. Mọi tâm sự lớn nhỏ riêng chung
chúng tôi đều nói với nhau, trừ chuyện Mậu Thân Huế 1968. Chuyện này có lý do
riêng của nó.
Năm
1968 tôi chỉ là chú học trò lớp 5 ở Quảng Bình, chẳng biết gì Mậu Thân Huế 68
và cũng không mấy quan tâm. Tới năm 1988, tôi được Thành ủy Huế mời tham gia
viết về Mậu Thân Huế 68, được phân công ghi lời kể của ông Nguyễn Trung Chính,
lúc đó là Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy Bình Trị Thiên ( Giờ ông Chính còn sống và
còn rất tỉnh táo). Tôi còn gặp gỡ thêm nhiều người khác để nghe kể bổ sung câu
chuyện của ông Nguyễn Trung Chính, trong đó có ông Lê Minh nguyên là bí thư
chiến trường Trị-Thiên. Nhờ vậy tôi nắm khá tốt toàn cảnh Mậu Thân Huế 1968.
Lúc
đó có nhiều xì xào về câu chuyện “thảm
sát Mậu Thân Huế” và anh Tường dính líu tới vụ này. Nên tôi không hỏi anh
Tường, vì biết nếu hỏi thế nào anh cũng nói không. Tôi chủ tâm đi hỏi người
khác cho ra lẽ. Ông Nguyễn Trung Chính và tất cả những ai ở Huế Mậu Thân 68 mà
tôi gặp gỡ hoặc tình cờ hoặc chủ ý đều cho tôi hay Mậu Thân Huế 68 anh Tường
không về Huế, hoặc là không hề thấy anh Tường ở Huế. Có vài người cho hay họ
nghe người này người kia nói “thấy bóng
ông Tường”, “nghe tiếng anh Tường”… hoặc “thấy giống ông Tường”, không một ai, không một bài viết nào xác
thực anh Tường ở Huế trong Tết Mậu Thân 1968.
Còn
như trong sách “Huế Thảm sát Mậu Thân” ông
Liên Thành kể tù binh của ổng khai Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế chủ tịch tòa
án nhân dân ở trường Gia Hội cùng với hai thành ủy viên là Phan Nam, Hoàng
Lanh… quả là câu chuyện tiếu lâm. Ông Tường ngồi ghế chủ tịch tòa án nhân dân
mà dân Huế không ai biết, chỉ có ông Liên Thành và tù binh của ổng biết (!)
Nhân
đây nói luôn, chính bà Tùng Chi- Nguyễn Đình Chi- đã kể lại, Liên Minh của bà,
TS Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường… mới thành lập chưa làm được gì nhiều ở Mậu
Thân 68. Duy có một việc làm rất đáng kể, ấy là khi Chính quyền Cách mạng muốn
lập tòa án để xử “những tên nợ máu của
nhân dân”, Liên Minh đã can gián Chính quyền nên đình chỉ những tòa án như
thế. Và chính quyền đã nghe theo.
Về
câu hỏi: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt ở
Huế Mậu Thân 68 hay không?”, tôi có trong tay hai cuốn sách ra đời sau Mậu
Thân Huế, những năm 1969-1971, viết về Mậu Thân Huế, đều với thể loại bút ký. Đó
là “Giải khăn sô cho Huế” và “Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu” đưa ra
những thông tin trái chiều rất thú vị.
“Giải khăn sô cho Huế” của Nhã Ca, một cuốn sách cực chống cộng, đã dành
gần hai trang kể chuyện anh Tường (dưới cái tên Phủ) để cho hay anh Tường không
về Huế trong Tết Mậu Thân 68. Trong khi đó cuốn ”Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cuốn
sách cực cách mạng, được tác giả viết với ngôi thứ nhất, mọi việc diễn ra dưới
mắt tác giả. Tuy nhiên giới văn nghệ Huế đều biết Hoàng Phủ Ngọc Tường viết
theo tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân cung cấp. Cả anh Tường và anh Xuân đều công
khai chuyện này.
Tôi
tin điều này vì cũng chẳng có gì phải nói dối, ngoại trừ hai người muốn che
giấu việc anh Tường về Huế. Nhưng nếu anh Tường về Huế thật thì muốn giấu cũng
chẳng được. Huế thì nhỏ, anh Tường thì quá nổi tiếng, giấu làm sao được.
Dù
cuốn sách “Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn
Lâu” đã được bạch hóa tác giả của nó sáng tác theo tài liệu của người khác,
cũng không vì thế mà khẳng định Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở Huế - Mậu
Thân 68. Tôi tiếp tục phỏng vấn nhiều người. Hồi đó phỏng vấn không có ghi âm
nên bây giờ dù có kể bao nhiêu cũng không mấy ai tin, nên tôi không kể lại làm
gì.
Tôi
chỉ nhớ nhất lời ông Lê Minh, ông nói Liên Minh do ông Lê Văn Hảo làm chủ tịch
chỉ là ngọn cờ cách mạng dựng lên để đối thoại với Mỹ và Chính quyền Sài Gòn
thôi. “Liên Minh mới thành lập, chưa được
tham gia chỉ huy chiến dịch Mậu Thân, ngoài lá cờ Liên Minh được treo ở Phú Văn
Lâu”. Ông Lê Minh nói một câu tôi không thể quên:”Tường không về Huế, mà có về Huế cũng không có quyền hành chi đâu.
Chức Tổng thư ký của Tường, nghe thì oai thực chất là thư ký cho ông Hảo bà Chi
mà thôi. Với cả Tường không có khả năng làm điều ác”. Tôi nghe rất nhiều
người nói câu này, bản thân tôi cũng tin vậy, ai ở gần anh Tường cũng tin vậy.
Tôi
tin anh Tường không dính líu gì đến Mậu Thân Huế 1968, dính líu tới cuộc thảm
sát lại càng không. Cuốn sách “Huế xuân
68” dày 344 trang nhắc tên hàng trăm người tham gia Mậu Thân Huế 68, tuyệt
không một dòng nào nói đến cái tên Hoàng Phủ Ngọc Tường (ngoại trừ khi kể
chuyện ở chiến khu). Những nhân vật chủ chốt tham gia chiến dịch Mậu Thân Huế
đều có mặt trong cuốn sách, và không một ai cho hay họ đã thấy hoặc nghe nói
anh Tường từ chiến khu về Huế. Đủ cho tôi thấy niềm tin của tôi là có cơ sở.
Cho
tới một ngày tôi được xem clip phát tán trên mạng về bản gốc cuộc phỏng vấn của
đoàn làm phim "Việt Nam một thiên
lịch sử truyền hình”. Thú thật tôi sốc rất nặng. Anh Tường nói những gì tôi
có thể hiểu, anh muốn gửi thông điệp của anh tới ai tôi cũng hiểu, nhưng cái
“liếm môi huyền thoại” và ánh mắt láo liên của anh trước cuộc phỏng vấn thì tôi
không thể hiểu nổi.
Biết
anh đã hết sức bối rối khi đứng giữa sự thật và “ý đảng”, tổ chức mà anh đang nguyện phấn đấu, dù thế nào hành vi
ấy cũng thật đáng ngờ. Từ đó tôi lẳng lặng tìm kiếm sự thật, để nếu anh Tường
đúng là kẻ sát nhân như đồn đại thì tôi sẽ ỉa vào mặt anh và bỏ ra Hà Nội không
thèm làm phó cho anh, cũng chẳng chị em kết nghĩa với chị Dạ gì nữa. Ba mạ tôi
làm điều ác tôi cũng không tha thứ, đừng nói anh Tường.
Mặc
dù vậy, càng tìm hiểu tôi càng thấy anh Tường vô tội. Lý do thật đơn giản là
anh Tường không có mặt ở Huế Mậu Thân 1968. Anh cũng chẳng có một cái quyền chỉ
huy từ xa nào dù nhỏ. Nghĩa là anh Tường vô can mọi sự xảy ra ở Huế trong suốt
thời gian xảy ra chiến dịch Mậu Thân 1968. Tội lớn nhất của anh Tường là ở cái
clip kia. Nói cách khác, không có cái clip kia thì anh Tường không có tội gì
hết.
Tuy
nhiên để chứng minh anh Tường vô tội không phải dễ. Tất cả những ai làm nhân
chứng đều bị coi là không đáng tin. Người sát cánh bên anh Tường từ 1967-1971
là Nguyễn Đắc Xuân thì bị coi cùng một giuộc “đồ tể”. Tô Nhuận Vĩ, Trần Vàng Sao, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Khoa
Điềm đều là bạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Họ nói gì nói thế nào cũng bị
nghi ngờ bao che cho Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Còn
như những lãnh đạo thời đó như Lê Minh, Lê Văn Hảo, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn
Vạn, Hoàng Lanh… thì có nói bao nhiêu người ta cũng bảo cộng sản dối trá. Và vì
anh Tường không về Huế, nên chẳng biết tìm ai phía bên kia để làm nhân chứng về
cái sự không về Huế ấy. Không lẽ lại hỏi: Ai biết Hoàng Phủ Ngọc Tường không về
Huế giơ tay lên?
Vào
khi tôi cực kỳ bế tắc trong cuộc giải toả tội trạng cho Hoàng Phủ Ngọc Tường
thì chiều ngày 23 Tết, tức ngày 08/02/2018 anh Tường cho con gái gọi tôi sang
nhà đem cho bài viết này. Anh nói: “Nhờ
Lập đăng bài này trước giao thừa.” Anh chỉ nói vậy thôi, không nói gì thêm.
Tôi hiểu anh muốn kết thúc câu chuyện quá buồn này trong năm nay, để từ năm sau
trở đi nhà anh, con cháu anh, bạn bè anh… và những người yêu mến anh sẽ không
còn phải nghe sự chửi rủa nửa thế kỷ qua.
Mong
là như vậy nhưng khó lắm. Sẻ chia cảm thông có rất nhiều nhưng ác ý cay nghiệt,
đục khoét nhấm nháp nỗi đau của người khác cũng nhiều không kém. Luôn luôn là
vậy. Đời mà.
Với
tôi, câu chuyện Mậu Thân Huế 68 vẫn còn, và còn mãi cho tới khi nào Nhà nước
chính thức công bố sự thật nửa thế kỷ qua, hoặc một ủy ban điều tra quốc tế
được thành lập để làm rõ trắng đen. Còn câu chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường có dính
Mậu Thân Huế 68 hay không đã chấm dứt, kể từ khi anh Tường cho công bố bài viết
này.
Sài
Gòn ngày 9/2/2018
NGUYỄN QUANG LẬP
- Tư liệu Tham Khảo
Chung quanh việc Mậu Thân Huế
và Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều bài, nhưng hầu hết chỉ là những bài viết
thiên về cảm tính, ức đoán hoặc quy chụp… lặp đi lặp lại của phía cho rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường có gây tội ác ở Huế. Thậm
chí có nhiều bài vu khống trắng trợn, mạt sát Hoàng Phủ Ngọc Tường rất nặng nề.
Loại bài vở này có rất nhiều ở Google, bất cứ ai cũng tìm kiếm được. Ở đây tôi
chỉ xin dẫn ra một số bài để chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở Huế
Mậu Thân 68 và vì sao lại như vậy, để mọi người một biết một kênh thông tin mà
tôi truy tầm được. Hãy xem đây như một chiều thông tin cho mọi người thẩm định
để đưa ra đánh giá của mình.
1.
Giải khăn sô cho Huế -
Nhã Ca- Chương 10
Đoạn
trích dưới đây thuộc chương 10 của cuốn sách. Nhân vật Phủ được tác giả công
khai cho biết đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
“Có người nói Ðắc với Ðoan với Ngọc cùng trốn một
lượt. Lần này Ðắc trở về, chắc Ngọc và Phan cũng trở về rồi. Tôi thầm lo ngại,
ngày trước Phủ có một cô nhân tình cũng ở trong thành nội này, sau khi Phủ đi
ít lâu, cô tình nhân đã vội thay lòng đổi dạ theo một người khác. Ngoài việc bị
khổ sở vì trốn tránh, Phủ còn mất luôn người yêu nữa. Lần này nếu trở về, chắc
Phủ sẽ đau khổ ghê lắm. Liệu chuyện gì sẽ xảy ra?
Tôi hỏi gặng mãi em gái tôi có nhìn thấy Phủ không.
Có ai nhìn thấy Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả bạn bè của nó đi
họp cũng nói không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm cho kẻ phản bội. Nếu Phủ
trở về, thêm một mối thù hận nữa, cô bé thay lòng kia chắc cũng không tránh
được hậu quả thương tâm. Nhưng em gái tôi cười gượng:
"Anh
tưởng về tới Phủ mới biết răng! Em tin là Phủ không chấp nhận mô. Nhưng Phủ và
Ngọc không có mặt ở nội thành."
2.
Thụy Khuê nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân
ở Huế- RFI-12-1997
Đây
là bài Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn khá đầy đủ xung quanh Mậu Thân
Huế và vai trò của anh, anh ở đâu làm gì khi chiến dịch xảy ra.
3. Trường hợp
Hoàng Phủ Ngọc Tường - Đặng Tiến- Thông Luận 1/1995
Trên
Thông Luận tháng 11-1994, mục Tạp
ghi, trang 31, bạn Nguyễn Gia Kiểng đã có đoạn viết quá đáng về nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Tôi xin được bổ túc, một mặt để bạch hóa trường hợp Hoàng Phủ
Ngọc Tường, mặt khác đả thông quan hệ giữa nhừng người, không nhiều, trong và
ngoài nước, hiện đang đấu tranh cho dân chủ, trong gian nan và đơn lẻ.
Bạn
Kiểng lấy lý do trả lời Đinh Quang Anh Thái, một cộng tác viên Thông Luận. Ngay
khi đăng câu hỏi, là có ác ý với Hoàng Phủ Ngọc Tường : « Nghĩ thế nào về trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh
ta có trách nhiệm lớn trong vụ thảm sát tại Huế, nhưng giờ đây lại xuất hiện
như một khuôn mặt trí thức tiến bộ ». Nguyễn Gia Kiểng trả lời lấp
lửng : « Hoàng Phủ Ngọc
Tường chỉ cho mượn tên chứ có lẽ không có trách nhiệm trực tiếp nào… ».
Sự
thật là : khi xảy ra vụ Mậu Thân 1968, Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt tại
Huế. Điều này đã được chính đương sự khẳng định, và nhiều người trong cuộc xác
nhận từ lâu. Trong một bài ký viết năm 1978, Nguyễn Đắc Xuân đã kể lại lúc được
lệnh từ chiến khu về Huế : « Chuyện giận nhau xảy ra giữa tôi và Tường – người bạn thân nhất của
tôi – lý do đơn giản : tôi có trong danh sách xuất quân đợt 1, trong lúc đó
Tường được cử làm tổng thư ký Mặt Trận Liên Minh, ở lại chiến khu chuẩn bị đón
các vị nhân sĩ ở Huế sắp ra (trong đó có Lê văn Hảo, bạn cũ của chúng tôi). Lúc
cầm cái lệnh xuất quân trong tay, tôi không còn đủ kiên trì để ngôi vỗ vỗ chà
chà (…) in cho xong tập thơ Nổi Lửa. Tường trách tôi nôn nóng ra đi, để việc in
dở dang cho người ở lại. Thế là chúng tôi giận nhau. » (Huế, những ngày nổi dậy, NXB Tác Phẩm
Mới, Hà Nội, 1979, tr.82).
Chính
Lê văn Hảo cũng xác nhận điều đó trong một bài ký khác (Huế, Xuân 68, NXB Thành Ủy Huế, 1988, tr. 241) và trong một tuyên
bố gần đây tại Paris, trên báo Quê Mẹ. Thời điểm Mậu Thân 1968, Lê văn Hảo làm
Chủ Tịch Mặt Trận Liên Minh, bà Nguyễn Đình Chi làm phó chủ tịch đã ghi lại : « Những ngày cuối tháng Hai
đầu tháng Ba năm 68 thật bận rộn. Các cơ quan văn hóa văn nghệ ở căn cứ thăm
chúng tôi luôn… Anh Lê văn Hảo và anh Thuyết (tức là nhà văn HP) đến thăm… »
(Huế, Xuân 68, sđd, tr. 254-255).
Bà
Nguyễn Đình Chi lên đến chiến khu Khe Trái ngày 18 tháng 2. Hòa Thượng Thích
Đôn Hậu đến ngày 19 tháng 2-1968, nghĩa là đúng thời điểm xảy ra vụ thảm sát
Mậu Thân, vậy họ cùng với Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt tại Huế.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng không « cho mượn tên » như Nguyễn Gia Kiểng nói. Lúc đó, anh
tranh đấu thật sự cho một lý tưởng, mà anh và nhiều người khác cho là đúng, và
sẵn sàng hy sinh mạng sống cho lý tưởng đó, chứ không phải chỉ « cho mượn tên ».
Sau
đó, Nguyễn Gia Kiểng còn bồi thêm cho Tường một nhát dao chí mạng : « Điều kinh khủng gấp nhiều
lần là, hơn mười năm sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tuyên bố, trong một phim
truyền hình được chiếu tại Mỹ và tại Pháp, rằng những nạn nhân đó chỉ là những
tên phản bội, và (lời Hoàng Phủ Ngọc Tường) « cách mạng giết chúng cũng như giết loài rắn độc mà
thôi ».
Tôi
đồng ý với bạn Kiểng rằng một câu nói như vậy là vô đạo, không thể chấp nhận
được. Và tôi tìm hiểu. Tôi hỏi Tường : ông nói câu ấy thời điểm nào, hoàn cảnh
nào ? Thì đương sự không nhớ, chỉ nhớ là có trả lời một phóng viên Mỹ, trong
một bài phỏng vấn dài, mà câu trên chỉ là trích đoạn, rời khỏi văn mạch. Trên
bộ phim, ngày nay còn có thể kiểm chứng, thì đại ý là : « Dân chúng tích lũy thù hận quá lâu, đã
vùng dậy trả thù và giết họ như loài rắn độc ». Bạn Kiểng trích vội, thành ra « Cách mạng giết họ…» lại càng xa nguyên ý.
Hình
tượng « rắn độc » hết sức thô bạo,
nằm trong ngôn từ cộng sản, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từ vị trí tiêu thụ, trở
thành nạn nhân và tòng phạm. Hãy nghe ông Tố Hữu nói về Nhân Văn Giai Phẩm,
những người từng ăn một mâm, nằm một chiếu, đã từng « chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui
đắp cùng » (Việt Bắc), ông
bảo « đánh rắn phải đánh
dập đầu, đánh tận hang, diệt tận trứng » (4-6-1958). Trong đám « rắn » này có Phùng Quán, cháu gọi ông
bằng cậu ruột.
Rồi
ông Hoài Thanh, bàn thêm tán rộng : « Vấn đề là phải tẩy trừ những nọc đọc bọn họ phun ra. Những luận điệu
(..) chạy rông như chuột dịch… Trong khi Bạch Tố Trinh
khao khát được làm người thì thứ rượu tai ác kia bắt nàng trở lại nguyên hình
kiếp rắn » (Tuyển Tập II,
NXB Văn Học, Hà Nội, 1982, tr.324-325). Tôi chọn trích dẫn Tố Hữu, Hoài Thanh ở
cấp lãnh đạo cao nhất, chứ ở lớp văn nghệ cung đình điếu đóm thì không thiếu gì
văn thơ rắn rết và chuột dịch như thế.
Dĩ
nhiên, dưới bất cứ hình thái nào, một câu nói như trên vẫn không chấp nhận được
vì nội dung vô đạo của nó. Nhưng chúng ta còn nhớ sau ngày nước Pháp giải
phóng, một người hiền hòa và độ lượng như Albert Camus mà đã tuyên bố : « Một nước thất bại việc
thanh lọc thì thất bại việc canh tân » (Un pays qui manque son épuration
manque sa rénovation), báo Combat
ngày 5-1-1945. Lời lẽ văn hoa, nhưng nội dung cũng đại khái vậy thôi.
Bạn
Nguyễn Gia Kiểng còn trách Hoàng Phủ Ngọc Tường « chưa hề công khai hối tiêc câu nói đó. Có thể sau
này sẽ xin lỗi ». Thật ra, những câu nói vô ý thức, người nói dễ quên,
và đương sự cũng đã quên béng nó đi rồi. Hơn nữa, đất nước sau bao nhiêu chìm
nổi, con người đã làm việc nọ, nói việc kia, biết đâu là sai là đúng. Bây giờ
thì ai có quyền hỏi tội, và ai có quyền tha thứ ? Phạm Công Thế, một danh sĩ
khởi loạn thời Lê, trước khi ngửa cổ chịu chém, còn trả lời triều đình : « Lâu nay danh phận không
rõ, lấy gì phân thuận nghịch ? ».
Hoàng
Phủ Ngọc Tường có nông nổi nói sai, thì từ đó đến nay đã đem cuộc đời mình ra
để đấu tranh cho tự do dân chủ, làm báo Sông
Hương tại Huế, 1989, bị dẹp, chạy ra Quảng Trị làm Cửa Việt, cũng bị dẹp. Trả lời Tào Tháo kể lể công ơn, Quan Vân
Trường đáp rằng chém Nhan Lương, giết Văn Xú, là đủ lễ, bây giờ lấy hai tờ Sông Hương và Cửa Việt ra chuộc lời nói vô ý thức thốt ra trong bóng chạng vạng
giữa sói và cầy, vô tình lọt lên màn ảnh Phương Tây, chưa đủ lễ sao ?
Cuối
cùng bạn Kiểng kết luận rằng : « Sẽ không ai có thể thuyết phục được tôi rằng một người như Hoàng Phủ
Ngọc Tường là một trí thức ». Ai trí thức ai không trí thức, trên
cõi đời này, ai công đâu mà đi thuyết phục ai những chuyện trần ai như vậy ?
Đấu
tranh cho dân chủ, chúng ta làm việc đội đá vá trời. Sức yếu thế cô, chúng ta
phải tranh đấu với một chế độ đã nhiều vũ lực lại lắm mưu cơ. Đã thế, khi đánh
vào thành đồng vách sắt kia, chúng ta chỉ đánh bằng một tay, mà là tay trái,
còn tay phải thì thủ sau lưng, đề phòng đánh nhau, hoặc khều nhau chơi.
Ví
dụ, sau vụ Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì Thông
Luận khều sang Phan Đình Diệu. Trong bài « Đảng Cộng sản và phương pháp cây kiểng »
(tháng 12-1994), ông (bà) Mai Chi nào đó đã vi vu : « Một trí thức đảng viên rất có tiếng vì kiên trì xin
đảng bố thí dân chủ cho mọi người (…) đã trả lời trước một số anh em có mặt hôm
ấy rằng anh ta lúc nào cũng làm hai báo cáo : một báo cáo chân thật theo tình hình
thực tế, một báo cáo theo ý thích các cụ (..) Anh ấy là
Phan Đình Diệu ».
Theo
chỗ tôi biết, anh Diệu không phải là đảng viên, lại càng không phải là người
hai lưỡi. Dân chủ, và những quyền làm người khác, chưa bao giờ là của bố thí
trong lịch sử nhân loại, và cộng sản chưa bao giờ bố thí cái gì cho ai trong
lịch sử đảng dài non thế kỷ. Phan Đình Diệu đấu tranh cho dân chủ, tiếng nói
vang vang trên nhiều diễn đàn trong và ngoài nước, không làm chuyện « kiên trì xin bố thí ». Nếu lấy hình
ảnh ăn mày, ta chỉ có thể xếp Phan Đình Diệu vào hàng ngũ những « anh em khất thực trong dòng khổ tu Cách
Mạng », ces frères de l’ordre mendiant de la Révolution, như những nhân vật
của André Malraux trong La Condition
Humaine.
Báo
Thông Luận trong tinh thần hòa giải
và hòa hợp, trong cuộc đấu tranh cho dân chủ nên tránh khơi dậy hận thù và gây
hiềm khích, chia rẽ giữa những người dù không đi cùng đường, cùng nhìn về một
hướng.
ĐẶNG TIẾN - Noel
1994
4. Cái họa của người nổi tiếng -
Thanh Tùng thực hiện-Đăng lần đầu ở Báo Tiền Phong chủ nhật số 18 (từ 28/4-4/5/2008)
Phỏng
vấn này nói rất rõ về cuốn “Ngôi sao trên
đỉnh Phú Văn Lâu” vì sao lúc đầu lấy tên Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc
Xuân, về sao chỉ có tên Hoàng Phủ Ngọc Tường.
5. Ký ức Mậu Thân 68 và lời cầu
nguyện cho những linh hồn đã khuất – Phỏng vấn nhà văn Trần Nguyên Vấn –
Báo Dân Việt online 03/02/2018
Trích:
“Như ông vừa nói thì lúc đó có cả nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc
Tường, vậy thực tế ông Hoàng Phủ Ngọc Tường có trở về Huế trong cuộc tổng tiến
công và nổi dậy Mậu Thân 1968?
-Anh
Hoàng Phủ Ngọc Tường là bạn thân của tôi từ khi học Trường Trung học Khải Định
ở Huế, niên khóa 1953-1954, anh Tường học đệ tư B3 tôi học đệ tứ B6. Khi chúng
tôi thi bằng Diplom thì Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trương Quang Minh là người đỗ
nhất nhì.
Tháng
6 năm 1967, tôi vào chiến trường, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường thay mặt ban Tuyên
giáo đi đón tôi và chúng tôi cùng ở, làm việc với nhau. Sau đó tôi lên khu ủy
làm việc mấy tháng rồi quay trở lại ở cùng các anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng
Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Lê Khánh Thông.
Lúc đó, chúng tôi làm
tờ báo “Cờ giải phóng” và anh Hoàng
Phủ Ngọc Tường là Tổng thư ký Liên minh dân tộc dân chủ hòa bình thành phố Huế.
Nhiệm vụ anh Tường được giao rất vất vả, luôn túc trực máy ghi âm, ghi chép để
làm những lời kêu gọi, hưởng ứng các chủ trương của trong Nam ngoài Bắc và viết
các tuyên bố sự việc xảy ra ở Huế, cho nên anh Tường rất bận rộn và anh không
về Huế trong dịp Mậu Thân.
Sau
này, tôi có đọc được những bài viết nói anh Tường lập tòa án Huế để xử và gây
ra những vụ thảm sát ở Huế. Bản thân tôi năm 2002, sang Mỹ 3 tháng, tôi cũng
gặp một số bạn bè và nhiều người hỏi tôi về anh Hoàng Phủ Ngọc Tường thì tôi
cũng đã từng trả lời là anh Tường không về Huế và không có mặt ở Huế trong sự
kiện Mậu Thân.
Sơ
xuất xảy ra từ khi anh Tường nhận tài liệu của anh Nguyễn Đắc Xuân để viết “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, anh đã
tả những cảnh đẫm máu như là người trong cuộc. Sau này nhiều người cứ vin vào
câu nói anh viết rằng: “anh đi trong
thành nội, đi ở dưới bùn nhưng mà đấy thực chất là máu...” chính sự thiếu
cẩn trọng khi viết đã để xảy ra điều đáng tiếc, chứ bản thân anh Tường là một
người tham gia phong trào đấu tranh năm 1966, sau đó lên rừng hoạt động và trở
thành cây bút chiến đấu dũng cảm, kiên trì. Anh viết văn và bút ký của anh rất
hay, là người gắn bó với phong trào, sống hết lòng với công việc của mình.
Thời
gian ở trong rừng điều kiện khó khăn lắm, nhưng mỗi lần phải suy nghĩ để viết
thì rất vất vả, thèm thuốc lá mà không có thuốc hút anh còn phải lấy rau tàu
bay, hơ lửa để cuốn thành điếu thuốc. Những lời độc địa được thêu dệt thêm,
hoặc chỉ dựa vào một vài thông tin để bịa đặt là điều khó chấp nhận.
Thực
tế, anh Tường vất vả để lo lời tuyên bố, lời kêu gọi nên đã không về Huế. Bản
thân anh Tường khi viết hồi ký cho tướng Lê Minh, chỉ huy chiến dịch mà trong
cuốn Huế - Xuân 68 có trích: “Rốt cuộc là đã có những người bị xử lý oan
trong chiến tranh. Dù lý do thế nào thì trách nhiệm vẫn thuộc về lãnh đạo,
trong đó có trách nhiệm của tôi. Nhiệm vụ này bây giờ của cách mạng là phải
minh oan cho gia đình con cái của những người đã chết, trong hoàn cảnh như vậy,
trong khi luật pháp cách mạng chưa hề có ý định xử họ vào tội chết; có một
người phải minh oan cho một người, có một trăm người cũng phải minh oan cho một
trăm người. Đó là lẽ phải và tình thương, quần chúng sẽ thông cảm và không bao
giờ lẫn lộn đen trắng”.
6. Nhà báo Minh Tự phỏng vấn một số nhân vật
tham gia Mậu Thân Huế 1968.
Nhà
báo Minh Tự đã giúp tôi (NQL) phỏng vấn các nhân chứng về việc ông Hoàng Phủ
Ngọc Tường có về Huế trong Tết Mậu Thân hay không. Bản Phỏng vấn có ghi âm rất
dài, dưới đây là những tóm lược chính từ băng ghi âm:
1/ Ông Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa -
lịch sử, hiện đang sống tại Huế. Ngày 28-1-2018, ông Xuân đã trả lời:
Tôi
xin khẳng định một lần nữa: ông Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở thành phố
Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968. Điều này tôi đã nói nhiều lần, đã viết
trong nhiều bài báo, đã in trong sách hồi ký “Từ Phú Xuân đến Huế” (NXB Trẻ, 2012), đã đăng trên Facebook của
tôi.
Vì
sao ông Tường lại không về Huế trong những ngày mà hầu như các lực lượng trên
chiến khu đều có mặt ở thành phố Huế để tham gia cuộc tổng tấn công và nổi dậy?
Để trả lời câu hỏi này, tôi phải kể lại câu chuyện sau đây, cho rõ ngọn ngành.
Tôi
và Hoàng Phủ Ngọc Tường vốn xuất thân trong phong trào đấu tranh đô thị. Sau bị
chính quyền Sài Gòn truy nã, chúng tôi đã thoát ly lên rừng theo Mặt trận Giải
phóng, vào tháng 7-1966. Cả hai chúng tôi được Thành ủy Huế bố trí làm báo Cờ Giải Phóng.
Đến
cuối năm 1967, chúng tôi được gọi vào gặp Thường vụ Thành ủy báo cáo về phong
trào đấu tranh đô thị ở Huế. Thành ủy đánh giá phong trào này rất tiến bộ ;
và cho biết Trung ương có chủ trương thành lập thêm một Mặt trận thứ hai gồm
các vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà tu hành, doanh nhân liên minh
với Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam để đấu tranh giải phóng đất nước. Đó
là Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Thành phố Huế.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường là người văn hay chữ tốt, đã chấp bút hoàn thành bản thảo Cương
lĩnh cho Liên minh. Ông Tường cũng viết thư mời TS Lê Văn Hảo - giáo sư Đại học
Văn khoa và Đại học Sư phạm Huế - tham gia Liên minh này. Ngoài ra, Thành ủy
Huế còn mời hòa thượng Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đình Chi... Sau đó, Liên minh
này của Huế được thành lập, giáo sư Lê Văn Hảo làm Chủ tịch Liên minh, hòa
thượng Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi làm phó chủ tịch, Hoàng Phủ Ngọc
Tường làm Tổng thư ký.
Liên
minh thành lập, nhưng mới chỉ có ông Lê Văn Hảo từ Huế ra chiến khu vào khoảng
cuối tháng 1-1968. Các vị còn lại phải sau khi đã chiếm được thành phố mới ra
được chiến khu. Thành ủy Huế đã đào một địa đạo xuyên núi ở Khe Trái phía tây
huyện Hương Trà để làm nơi ở và làm việc của Liên minh. Địa đạo Khe Trái là cơ
quan bí mật của Thành ủy Huế, ai không có trách nhiệm làm việc với Liên minh
thì không được vô. Vì vậy, nhiều người có hoạt động trên chiến khu nhưng vẫn
không biết chỗ này. Bây giờ địa đạo Khe Trái vẫn còn đó, đã thành di tích lịch
sử.
Trong
những ngày diễn ra trận chiến Tết Mậu Thân ở thành phố Huế, ông Tường là Tổng
thư ký của Liên Minh nên phải ở tại địa đạo Khe Trái, để đón những vị còn lại
của lãnh đạo Liên minh từ thành phố Huế đang chuẩn bị lên. Các vị lãnh đạo Liên
minh lớn tuổi, lại mới lên rừng nên mọi việc của Liên minh đều trong tay anh
Tường. Ngoài hòa thượng Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi, còn có cụ Nguyễn
Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm, ông Nguyễn Thúc Tuân.
Sau
Tết Mậu Thân 1968, vùng chiến khu Thừa Thiên Huế bị bom đạn dữ dội. Khoảng đầu
tháng 3-1968, đoàn Liên Minh phải lên tá túc ở chiến khu Trị Thiên giáp biên
giới Lào. Đến tháng 7-1968 thì được đưa ra Hà Nội. Nhưng tôi và Hoàng Phủ Ngọc
Tường vẫn ở lại Khe Trái, sau đó cùng làm báo Cứu lấy quê hương.
Ông
Tường ở đó, không ra đến cửa rừng nữa là về Huế, mà sao người ta cứ nghĩ là ông
có về Huế, cũng là vì một chuyện khác có liên quan đến tôi. Đầu năm 1969, chúng
tôi dự Đại hội văn nghệ Trị Thiên. Sau đai hội tình hình ở Thành ủy Huế đang
gặp khó khăn, không về được, chúng tôi gồm Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Nguyễn Hữu Vấn, Lê Công Cơ, Trần Thân Mỹ bày ra viết chuyện Mậu Thân.
Chúng
tôi đều về Huế tham gia chiến dịch Mậu Thân nên có chuyện để viết, còn ông
Tường không về Huế nên phải khai thác tư liệu do tôi ghi chép về những thanh
niên Huế giữ cột cờ Thành Nội Huế những ngày Tết Mậu Thân. Cái bút ký mà tôi
phác thảo ban đầu đặt tên là “Ngọn cờ
trên đỉnh Phu Văn Lâu”. Ông Tường viết lại và đặt tên là “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”. Tường
viết câu chuyện này theo thể loại bút ký văn học, tức là có hư cấu. Viết xong
gởi ngay cho Nhà xuất bản Giải phóng in luôn; không đưa cho tôi xem, nên tôi
không biết anh viết cái gì trong đó.
Người
ta đọc bút ký đó và thấy rõ ràng là ông Tường có về Huế, đi trên những con
đường đầy máu. Những chi tiết đó là do ông Tường tưởng tượng ra để viết bút ký
văn học, chứ có phải là bài viết về sử đâu mà nói là người thật việc thật. Cũng
phải nói thêm là vị trí của ông Tường khi đó quan trọng lắm, Tổng thư ký Liên
minh, nên các phát ngôn của ông là theo quan điểm của Liên minh.
Từ
khi lên rừng đến năm 1973 ra Quảng Trị làm Trưởng ty Văn hóa, ông Tường chưa
bao giờ về lại Huế.
Trong
những ngày lực lượng Giải phóng chiếm thành phố, người ta có nghe lời kêu gọi
của Liên minh, do ông Lê Văn Hảo và Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc. Vì vậy, người ta
càng tin rằng ông Tường có mặt ở Huế. Nhưng mà lời kêu gọi đó là băng ghi âm
lời của mấy ổng ở trên rừng mang về phát lại.
2/ Ông Nguyễn Trung Chính - nguyên phó bí thư
Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, vào thời điểm Tết Mậu Thân, sau khi thành lập chính
quyền nhân dân cách mạng, ông Chính làm Bí thư quận 1 thành phố Huế, tức khu
vực Thành Nội. Hiện ông Chính đang còn sống, nhà riêng 56 Hùng Vương - Huế.
Ngày 29-1-2018, ông Chính cho biết:
Vào
thời điểm diễn ra chiến dịch Mậu Thân, tôi ở tuyến trước, anh Hoàng Phủ Ngọc
tường ở tuyến sau, nên tôi không rõ lắm. Nhưng lúc đó tôi biết anh Tường là
Tổng thư ký Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình. Khi chiếm
được thành phố, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng, tôi làm Bí thư quận
1, tức khu vực Thành Nội, anh Nguyễn Hữu Vấn làm chủ tịch Ủy ban nhân dân cách
mạng quận 1. Anh Hoàng Phủ Ngọc Phan - em trai anh Tường - có tham gia trong ủy ban
này. Tại đây, còn có anh Nguyễn Đắc Xuân, phụ trách đội công tác thanh niên.
Còn có nhiều người về Huế nữa, nhưng tôi không thấy anh Tường.
3/ Ông Nguyễn Đính, tức nhà thơ Trần Vàng Sao, từng là sinh viên Huế, tham gia phong
trào tranh đấu bị chính quyền Sài Gòn truy nã nên thoát ly lên chiến khu năm
1965, hoạt động ở đơn vị công tác thanh niên thuộc Thành ủy Huế. Hiện ông Đính
đang sống tại phường Vĩ Dạ - TP Huế. Câu trả lời này ghi vào ngày 14-8-2016.
Tường chưa bao giờ về Huế cả.
Tường ở với tui trên rừng. Tết Mậu Thân, Tường không về Huế, tui bảo đảm như
rứa, tui làm chứng. Còn sau đó đi mô tui không rõ. Hoàng Phủ Ngọc Phan thì có
về Huế. Sau khi rút khỏi Huế lên lại rừng, Phan có gặp tui, nói Nhân ơi, tau đã
về Huế, đã nhìn thấy cầu Trường Tiền. Nhân là bí danh của tui, còn Tường thì có
bí danh là Thuyết.
4/ Ông Nguyễn Thúc
Tuân, nguyên thầy giáo Trường nữ trung học Đồng Khánh - Huế, nguyên thành
viên Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình năm 1968, hiện đang sống
tại Thành Nội - Huế. Trong Tết Mậu Thân, ông Tuân là cơ sở của cách mạng, sống
tại Huế. Sau Tết thì ông lên chiến khu Khe Trái cùng với các ông Nguyễn Đóa,
Tôn Thất Dương Tiềm, để tham gia Liên minh.
Vào tháng 12-2015, trong lần
trả lời nhà báo Phạm Xuân Dũng (Đài PT-TH Quảng Trị), ông Tuân khẳng định tết
Mậu Thân ông Tường không về Huế. Ông Tuân nói ông là đầu mối hậu cần của Thành
ủy Huế để đón lực lượng trên rừng về Huế, nên những người trên rừng về là ai,
ông đều biết. Ông không thấy ông Tường trong số những người trên rừng về Huế.
Và ngay sau Tết, ông Tuân lên chiến khu Khe Trái thì đã thấy ông Tường ở đó
cùng với ông Lê Văn Hảo, để đón ông cùng các vị khác từ Huế ra tham gia Liên
minh.
7. Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường -
Ngô Minh- Talawas 2008
Bài viết cho biết trong những
ngày Tết Mậu Thân Huế 68 người ta thu âm lời hiệu triêụ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, cho lên xe phát thanh khắp Thành phố. Vì thế nhiều người nhầm là Hoàng
Phủ Ngọc Tường về Huế.
8. Sự thật về 3 nhân vật bị kẻ thù gọi là “đồ
tể khát máu": Sự vu khống tráo trở... - Phan Bùi Bảo Thi- Báo An Ninh
Thủ Đô ngày 12/1/2003
http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Su-that-ve-3-nhan-vat-bi-ke-thu-goi-la-do-te-khat-mau-Su-vu-khong-trao-tro-304949/
Bài này viết kỹ về lai lịch
ông Liên Thành và cái gọi là kỳ án Hoàng Kim Loan, kẻ đã “ thấy” Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế chủ tịch tòa án nhân dân ở
Trường Gia Hội.
9. Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, Tường và tôi -Trần Nguyên Vấn
Đây là bài viết
mới nhất anh Trần Nguyên Vấn vừa viết chưa ráo mực, chưa in ở báo nào.
Nếu khóa 1953 -1954 Hoàng Phủ
Ngọc Tường học lớp Đệ tứ B1, tôi là Trần Nguyên Vấn học lớp Đệ Tứ B6 trường
Trung học Khải Định ( Quốc học Huế). Kỳ thi tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp
ngày 28 tháng 5 năm 1954, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trương Quang Minh thi đậu cao
nhất. Ở trường Khải Định hồi đó, chúng tôi thường chơi với nhau.
Sau hiệp nghị Genève tháng 7
năm 1954, tôi xin gia đình đi ra Bắc tiếp tục đi học. Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt
nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn khóa I, ban Việt Hán (1960), Cử nhân
Triết Đại học Văn Khoa Huế (1964). Từ năm 1960 đến 1966, anh dạy ở trường Quốc
học Huế. Năm 1966, anh lên chiến khu Trị- Thiên.
Tháng 6 năm 1967, từ Hà Nội
vào chiến trường Trị Thiên Huế. Thật bất ngờ và vui sướng khi tôi được Hoàng
Phủ Ngọc Tường và nhà báo Ngô Kha sinh viên ngành Sử ở trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội mà tôi từng quen biết – ra đón ở Trạm giao liên để đưa về Ban Tuyên huấn
Thành ủy Huế. Tôi đã làm báo Cờ Giải
Phóng của Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng thành phố Huế cùng với các anh
Thanh Hải, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Khánh Thông,
Nguyễn Đính ( Trần Vàng Sao)…
Có lần Tường và tôi đi gùi
gạo. Một buổi trưa, có cụ già người PaKô mời chúng tôi uống rượu đoác và trò
chuyện thân tình. Hôm sau, không thấy tôi đi cùng Tường, cụ già hỏi Tường: “Thằng con mất tóc của tao đâu rồi?” -
Chả là tôi hói trán nên cụ gọi như thế. Tường trả lời: “Thằng con mất tóc của cụ hôm nay phải ở nhà làm việc”. Có những
lúc đi đường, chúng tôi ngồi bên bờ suối nhìn những đám rẫy vừa phát đang chờ
đốt dọn để gieo hạt. Bất ngờ cả hai chúng tôi cùng nói: “Giống như những tấm thảm bay!” Chỉ có vậy thôi mà nhớ mãi.
Sau mấy tháng làm báo Cờ Giải Phóng, nhà thơ Thanh Hải và tôi
được đưa lên Ban Tuyên huấn Khu ủy Trị Thiên Huế do Thiếu tướng Lê Chưởng làm
Trưởng ban, nhạc sĩ Trần Hoàn và ông Lê Dự làm Phó Trưởng ban. Tháng Giêng năm
1968, nhiều anh chị em ở Ban tuyên huấn Khu ủy Trị Thiên Huế được điều về tăng
cường cho Quảng Trị và thành phố Huế.
Chúng tôi lo làm báo Cờ Giải Phóng và chuẩn bị các tài liệu
để đưa về Huế trong dịp Tết Mậu Thân. Lúc này tin chiến dịch đã rộn rang khắp
nơi. Chúng tôi nôn nao chờ được lệnh về Huế. Đi chiến dịch mừng lắm, nhưng mừng
hơn là được về Huế. Ai cũng nhớ Huế đến nao lòng. Nhất là những người mới rời Huế
lên rừng như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì nhớ lắm.
Gần Tết, chiến dịch Mậu Thân
68 bắt đầu. Các anh Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha,
Hồ Như Ý, Lê Khánh Thông, Lê Minh Trường, Nghiêm Sĩ Thái…. cùng các anh chị ở
Đoàn Văn Công Quân Giải phóng như Thế Linh, Thuận Yến, Phạm Ngọc Cảnh ( Vũ Ngàn
Chi), Thu Luỡng, Kim Vàng… có tên trong danh sách về Huế đợt đầu, chuẩn bị theo
các cánh quân tiến về Huế.
Tôi không được về đợt đầu.
Khi đó Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình thành phố Huế vừa
thành lập. Vốn là người của Tiếng nói Việt Nam, tôi được giao một máy ghi âm
Phi-líp để ghi tiếng nói của một số vị lãnh đạo chiến dịch, tiếng nói của một
số nhân sĩ, trí thức, cán bộ Liên Minh, chuẩn bị các bài viết để tiếp thu đài
Phát Thanh Huế khi bộ đội ta chiếm được.
Nhà thơ Trần Vàng Sao (Nguyễn
Đính) bị thương vì pháo một năm trước ở chân không đi đâu xa được, đành phải
ngồi chép tin đọc chậm qua máy thu thanh. Hoàng Phủ Ngọc Tường theo dõi các sự
kiện xảy ra ở Huế để lên tiếng kịp thời bằng những bản tuyên bố đanh thép. Anh
có nhiệm vụ quan trọng là ở lại để đón các thành viên trong Liên Minh từ Huế
lên Khu ủy.
Tôi biết mình chắc chắn được
tham gia chiến dịch, tức là được về Huế. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trần
Vàng Sao thì chắc chắn không được tham gia chiến dịch, chấm dứt giấc mộng “về Huế với em”. Tường không nói ra
nhưng chắc trong lòng bức bối khó chịu lắm. Anh không tin việc đón người Liên
Minh của anh không quá quan trọng tới mức không có người thay thế, buộc anh
phải ở lại. Anh nghi cách mạng chưa tin tưởng anh, càng thêm buồn bực. Có lẽ vì
trong lòng bức bối khó chịu nên Tường và Nguyễn Đắc Xuân cãi nhau to trong khi
gấp rút in tài liệu rô-nê-ô cho chiến dịch. Tôi không biết vì chuyện gì mà họ
cãi nhau nhưng lý do chính là Tường ghen tị với Xuân vì Xuân được về Huế. Ngày
đó chúng tôi còn trẻ lắm.
2h33 phút ngày 31.1.1968,
những loạt đạn ĐKB làm hiệu lệnh đã nổ mở đầu việc đánh vào thành phố Huế.
Cả đêm, những người ở lại
rừng thức trọn theo dõi qua làn sóng điện các Đài phát thanh. Tin chiến sự dồn
dập ở Huế làm cho chúng tôi đứng ngồi không yên. Chúng tôi hình dung bạn bè của
mình đang về trong Đại Nội, Tây Lộc, Khu Gia Hội, Từ Đàm, Trường Quốc học,
Trường Đồng Khánh, Nhà lao Thừa Phủ… Dù ai cũng nôn nao, không tập trung, bụng
dạ chỉ nghĩ về Huế, chúng tôi vẫn lo tròn công việc của cơ quan.
Tôi vào khu địa đạo Khe Trái,
nơi có nhiều vị nhân sĩ, trí thức để trò chuyện, phỏng vấn, ghi âm. Nhạc sĩ Trần Hoàn lo đôn đốc các công việc cấp thiết
của Tuyên huấn. Đang khi công việc bộn bề, anh Trần Hoàn bỗng dẫm vào nồi chè
vừa nấu chín, bị bỏng phải nằm võng mấy ngày. Những anh em không được về Huế
dịp này cũng chung một tâm trạng: Bao giờ mới đến lượt mình được về Huế đây?
Buồn quá! Người ta đi từng đoàn mà mình lại ngồi nhà. Có lúc tôi bức xúc qúa
đọc hai câu thơ:
Kẻ ngoại lai
được vào thành Huế
Dân đô thành
ở lại chép tin!
Trong
những ngày bồn chồn thấp thỏm như thế, hơn một tuần sau chiến sự diễn ra ở Huế,
tôi được anh Trần Hoàn bảo chuẩn bị máy ghi âm và băng ghi âm, tài liệu để đi
về Huế. Tôi mừng quá, chỉ thương cho Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trần Vàng Sao
không được về Huế dịp này. Tường chia tay tôi bằng cái nắm tay rất chặt, anh
không nói gì. Nhìn cái mặt buồn của Tường tôi cũng không dám nói gì, sợ nói ra
câu gì Tường chịu không thấu lại bật khóc, dễ bị quy là tiểu tư sản.
Đoàn
chúng tôi theo tướng Lê Chưởng qua dốc Ông Ầm, qua vùng giáp ranh và các làng
La Chử, Cổ Bưu, Trúc Lâm, An Ninh Thượng, An Ninh Hạ… Trụ sở Bộ chỉ huy chiến
dịch đóng ngay trong vườn cũ của bà ngoại tôi ở xóm Guốc xã Hương Long. Nhạc sĩ
Trần Hoàn cùng tôi về Kim Long và tôi đưa anh vào thăm nhà bác sĩ Hồ Văn Cang,
nơi tôi trọ học năm 1952 – 1954 cùng một vài gia đình khác. Anh Trần Hoàn còn
cho phép tôi tranh thủ lên thăm nhà ở Trúc Lâm, gặp bà nội, ba mạ và em trai
tôi là Trần Ngọc Trác cùng nhiều bà con.
Một
buổi chiều, máy bay trinh sát bay quẩn quanh trên xóm Guốc và bắn rốc-kết trúng
vào chiếc micro tôi đặt trên miệng hầm để ghi âm tiếng súng tiếng bom từ Cửa
Chánh Tây vọng lại. Sau đó Mỹ cho máy bay ném bom trong vườn bà ngoại tôi. Anh
Lê Chưởng và anh Trần Hoàn đang ở trong một hầm vội nhảy lên vào một hầm khác
khi bom nổ rất gần. Ngôi nhà vườn bên cạnh bị bom bốc cháy. Có mấy người dân
trúng bom Mỹ chết.
Không
chiếm được đài phát thanh. Tôi không còn việc gì phải làm. Tối hôm đó tôi theo
đoàn của anh Lê Chưởng và anh Trần Hoàn về lại hậu cứ. Gặp lại anh Hoàng Phủ
Ngọc Tường đang ở địa đạo Khe Trái, tôi kể cho anh nghe chuyến về Huế ngắn ngủi
của tôi và chia sẻ nỗi buồn của anh. Cũng như khi chia tay, Tường không nói gì,
chỉ nắm tay tôi rất chặt. Có lẽ khi nghe tôi kể chuyện Huế, Tường sợ anh bật
khóc.
Sau
này tôi đọc Giải khăn sô
cho Huế của Nhã Ca mới biết khi đó Tường đang có một cô người yêu ở
Huế. Giá lúc đó biết chuyện này, tôi có thể khẩn khoản anh Trần Hoàn xin cho
Tường về Huế. Anh Trần Hoàn tính hay mủi lòng, biết chuyện “Tường có người yêu đang đợi ở Huế” chắc sẽ tìm cớ cho Tường được
về Huế.
Đã
không được về Huế lại bị vu cho là “đồ tể” sát hại dân lành Huế, án oan ấy kéo
dài nửa thế kỷ. Thật đáng sợ.
Hà Nội 9.2.2018
TRẦN NGUYÊN VẤN
FB NGUYỄN QUANG LẬP 10.02.2018
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.