Bài đăng : Thứ sáu 30 Tháng Năm 2014 -
Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 30 Tháng Năm 2014
Đã gần
một tháng, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 của Trung Quốc vẫn ngang
nhiên hiện diện tại vùng biển Hoàng Sa thuộc vùng thềm lục địa và đặc
quyền kinh tế của Việt Nam. Hàng trăm tàu quân sự trong đó có những tàu
hộ vệ tên lửa và tàu cá giả dạng của Bắc Kinh, cùng với máy bay trinh
sát hàng ngày hung hãn tấn công, đe dọa các tàu Việt Nam. Trong lúc Biển
Đông dậy sóng, những hình ảnh trên mạng cũng hé lộ việc Trung Quốc rầm
rộ chuyển quân về phía biên giới Việt-Trung.
Các động thái này khiến mọi người không thể không đặt ra câu
hỏi : Liệu chế độ Bắc Kinh sẽ lại tấn công quân sự vào Việt Nam như đã
tiến hành vào năm 1979 ?
RFI Việt ngữ đã đặt vấn đề này với nhà bình luận Phạm Chí Dũng, cựu sĩ quan quân đội ở Thành phố Hồ Chí Minh.
RFI : Thân chào nhà bình
luận Phạm Chí Dũng. Vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 đã làm nổi sóng
dư luận, với một câu hỏi thẳng thừng, mà về phương diện quân sự là thứ
bậc cao nhất trong phòng vệ quốc gia: Liệu Trung Quốc có tấn công quân
sự Việt Nam vào thời điểm này? Nhận định của anh ra sao?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng
: Tất nhiên chiến dịch hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương Thạch Du
981 của Trung Quốc trên vùng lãnh hải của Việt Nam không còn mang tính
chất như những vụ khiêu khích và gây hấn thông thường như trước đây.
Tính chất lần này nghiêm trọng hơn nhiều và cho thấy rõ ràng đây là một
bước đi có tính toán của Bắc Kinh, nằm trong một giai đoạn ngắn hạn nhằm
phục vụ cho một chiến dịch trung hạn lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam.
Do đó, không phải vô cớ mà những quốc gia gần gũi về lãnh hải với
Việt Nam ở khu vực Biển Đông như Nhật Bản, Philippines và cả Hạm đội 7
của Hoa Kỳ vốn chỉ liên quan gián tiếp, đã phải bắn tín hiệu thực sự lo
ngại về động thái mở rộng bành trướng của Trung Quốc. Rồi hẳn nhiên một
lần nữa - nhưng lần này nghiêm túc hơn nhiều, cả dư luận lẫn giới quan
sát Việt Nam và quốc tế đều muốn tìm lời giải cho việc Trung Quốc có thể
tấn công Việt Nam vào thời gian này hay không.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét những bất lợi đối với chính thể Trung
Quốc nếu họ tiến hành một cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam. Theo tôi,
có ít nhất một số bất lợi rất đáng kể có thể xảy ra đối với Trung Quốc.
Từ sau cuộc chiến tranh lạnh Mỹ - Liên Xô, thế giới đã tiến vào kỷ
nguyên hội nhập và thỏa hiệp với nhau về nhiều mặt, trong đó nổi trội là
phương diện buôn bán thương mại song phương và đa phương. Tương quan
như thế khiến không một quốc gia có ảnh hưởng nào dám chịu thiệt lớn chỉ
đổi lấy cái lợi nhỏ. Một trong số ít những cuộc chiến tranh chấp hải
đảo gần đây nhất xảy ra vào năm 1982 giữa người Anh và Achentina ở quần
đảo Malvinas, nhưng cũng kết thúc chỉ sau vài tháng. Một chi tiết đáng
chú ý là Anh luôn được xem là một trong những nước lớn ở châu Âu và nằm
trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Rõ ràng Luân Đôn đã không dám
phiêu lưu quân sự.
Còn ở châu Á, Trung Quốc cũng được coi là nước lớn, dù chưa được xếp
vào loại siêu cường như Mỹ và Nga. Nhưng Trung Quốc cũng có chân trong
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và đó là lý do để có thể cho rằng bất kỳ
hành động gây hấn hoặc xâm lược nào từ phía Bắc Kinh cũng làm ảnh hưởng
đến đại cục địa - chính trị trên thế giới mà các siêu cường khác không
thể bỏ qua. Những vụ Trung Quốc gây hấn với Nhật Bản về quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư hay với Philippines về một số đảo nhỏ đã lập tức gặp
phải phản ứng mạnh mẽ của không chỉ các quốc gia này mà với cả cộng đồng
quốc tế.
Trừ Nhật có lực lượng phòng vệ bờ biển đủ mạnh, Philippines đã phải
tính đến việc tìm kiếm một quan hệ tương trợ quốc phòng với người Mỹ để
chống lại ý đồ xâm lăng từ Bắc Kinh. Vào tháng 5/2014, họ đã đạt được
kết quả khả quan khi thiết lập được hiệp ước tương trợ quốc phòng với
Washington, do vậy sẽ hợp thức hóa sự có mặt của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ ở
vùng lãnh hải Philippines bất cứ khi nào Trung Quốc gây hấn.
Hậu quả mà Bắc Kinh không tính kỹ trước khi hành động xâm chiếm biển
đảo chính là chỗ này. Tức là họ đã khiến một số nước nhỏ trong khu vực
đang nổi lên khuynh hướng liên kết với nhau theo cách Phong trào không
liên kết vào nửa cuối thế kỷ 20 và tìm đến sự trợ giúp của người Mỹ để
hạn chế rủi ro. Xu thế này cũng đang diễn ra với Việt Nam.
Ngay sau vụ việc giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981, chúng ta có thể
thấy là giới lãnh đạo Việt Nam, cho dù một số trong đó vẫn thề thốt
“mười sáu chữ vàng” với Trung Quốc, nhưng đã không còn dám xem thường
hiểm họa ngoại xâm trước mắt và tương lai mất nước không còn quá xa. Và
bất chấp tiếng nói hết sức yếu ớt của 3/4 bộ tứ, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng cùng ê-kíp của ông đã tìm đến mối liên minh không chính thức đầu
tiên với Philippines và sau đó có thể là một mối quan hệ quân sự ở mức
độ nào đó với Hoa Kỳ.
Trung Quốc chưa dám tấn công vào thời điểm này
RFI : Theo anh, hoạt động gây hấn của Trung Quốc gây ảnh hưởng thế nào đến chính sách Biển Đông của Hoa Kỳ ngay vào thời điểm này?
Nếu không can thiệp mà để cho Trung Quốc tự tung tự tác, Mỹ sẽ gặp
bất lợi lớn về tự do hàng hải, an toàn hàng hải ở Biển Đông và do đó có
thể sẽ bị phá sản phần lớn chính sách xoay trục sang châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ. Ai cũng biết rằng Biển Đông có vị trí như một cửa ngõ cho
giao thương hàng hải và nếu cần có thể khống chế hoạt động quân sự của
cả khu vực phía Nam và các nước xung quanh. Hiện nay cuộc đua lớn nhất
giữa Trung Quốc và Mỹ chính là điểm xung yếu này. Do vậy nếu bị Trung
Quốc qua mặt ở Biển Đông, mục tiêu an toàn hàng hải của Mỹ sẽ bị đe dọa
nghiêm trọng, vai trò của Hạm đội 7 cũng có không ý nghĩa đủ lớn, làm
cho chính sách của Mỹ về bảo vệ an ninh thế giới và cũng là an ninh của
công dân Mỹ sẽ lạc điệu.
Lời bắn tiếng về mối liên kết “đối tác chiến lược” với Việt Nam của
Tư lệnh quân đội Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương Locklear là một
minh chứng khá hoàn hảo về việc người Mỹ hoàn toàn không bỏ qua ý đồ
phong tỏa Biển Đông của Trung Quốc. Mới đây lần đầu tiên từ khi nhậm
chức Tổng thống Mỹ, ông Barack Obama đã phải tuyên bố “sẽ điều binh đến
Biển Đông” nếu tình hình nơi đây có thể xung đột quân sự.
Chúng ta đang nhận ra rằng người Mỹ không quá câu nệ vào quan hệ làm
ăn với Trung quốc, bất chấp quốc gia đông dân nhất thế giới này là đối
tác thương mại lớn nhất của Mỹ với giá trị buôn bán hàng năm lên đến 600
tỉ USD. Thậm chí ngược lại, nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt
với nhiều khó khăn về tín dụng, nợ xấu, ngân hàng, làn sóng thoái vốn
của giới đầu tư nước ngoài, thị trường xuất khẩu, do vậy Trung Quốc phải
cần đến các đối tác thương mại như Mỹ và Tây Âu hơn là phương Tây cần
đến họ.
Kẻ nào quá tham lam sẽ bị cộng đồng tẩy chay. Cũng như hình ảnh suy
yếu của nước Anh vào năm 1982 trong cuộc tranh chấp quần đảo Malvinas
với Achentina, những năm gần đây Trung Quốc đã trở thành một trong những
quốc gia bị oán ghét nhất trên hành tinh này. Nếu mạo hiểm gây ra một
cuộc chiến tranh dù chỉ quy mô nhỏ trong khu vực, Trung Quốc sẽ bị đại
đa số quốc gia trong Liên Hiệp Quốc quay lưng và sẽ bị cô lập. Đó chính
là điều mà chủ nghĩa Đại Hán phải tính đến một cách rất nghiêm cẩn, cho
dù tham vọng bành trướng của họ lớn đến mức nào.
RFI : Trong lịch sử, người
Việt Nam luôn sẵn sàng chống lại đến cùng tham vọng xâm lược của Trung
Quốc, kể cả sau một ngàn năm Bắc thuộc. Anh có cho rằng lịch sử sẽ lặp
lại nếu chiến tranh Trung - Việt nổ ra vào thời gian tới?
Có những dấu hiệu rất cần chú ý và lượng giá. Nếu Trung Quốc đã rất
tự tin kéo giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển Việt Nam thì
từ sau khu xảy ra vụ bạo động ở Bình Dương, Đồng Nai và cuộc xung đột
dẫn đến chết người ở Hà Tĩnh, các cơ quan tuyên giáo và báo đảng ở Trung
Quốc, kể cả Hoàn Cầu Thời Báo là tờ báo hung hăng nhất, đã có vẻ lắng
tiếng khá đột ngột. Giả thiết nêu ra là Bắc Kinh đã không tính đúng và
đủ về phản ứng của người dân Việt Nam đối với bước đầu xâm lăng của họ,
cho dù có thể họ đã lường trước và còn có thể “điều khiển” được phản ứng
của giới lãnh đạo cầm quyền Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ chủ nghĩa Đại Hán nô dịch được
đất nước này như một chư hầu trọn vẹn. Sau hàng loạt triều đại lịch sử
kháng Trung thành công như từ thời Hai Bà Trưng, Đinh, Lê, Lý và Hậu Lê,
những cuộc xâm lược gần nhất của Trung Quốc chỉ là sự tồn tại rất ngắn
ngủi của đội quân hai chục vạn của triều đình nhà Thanh ở Thăng Long vào
cuối thế kỷ 18. Hoặc là sự tồn tại ngắn ngủi không kém của đội quân
cũng hai chục vạn người của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc Việt Nam vào năm
1945. Và ngắn ngủi nhất là lực lượng lên đến sáu chục vạn người của
Trung Quốc nhưng bị thiệt hại đến 10% quân số trong cuộc tấn công biên
giới phía Bắc Việt Nam vào năm 1979.
Lịch sử và ưu thế kháng chiến đã nghiêng về Việt Nam, đó là điều hiển
hiện. Biện chứng lịch sử cũng cho thấy các chế độ chính trị Trung Hoa
luôn sai lầm khi đánh giá thấp tinh thần phản kháng của người dân và
quân đội Việt Nam, đặc biệt vào những bối cảnh mà họ cho là triều chính
Việt Nam đang phân hóa và rối loạn như hiện thời.
Nhưng cũng chính yếu tố rối loạn nội bộ mà Trung Quốc tưởng như một
ưu thế để có thể gây áp lực với Hà Nội lại khiến nảy sinh xu hướng công
khai hóa quan điểm ngả sang phương Tây của một nhóm không nhỏ các chính
khách Việt Nam. Tôi cho đây chính là một bất lợi lớn đối với Trung Quốc
khi phần lớn, nếu không nói là tất cả giới lãnh đạo Việt Nam đã như tỉnh
ra, ngộ ra bản chất thật của mối quan hệ “Bốn Tốt” với Trung Quốc là
như thế nào. Cùng lúc, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng phải tính đến
tương lai cho cá nhân họ nếu chủ hàng trước Trung Quốc. Tương lai ấy
cùng lắm cũng chỉ là “ngựa xe vài cỗ, quân hầu lơ thơ” nếu Việt Nam bị
biến thành chư hầu của người bạn phương Bắc đầy dã tâm.
Một bất lợi khác là nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam vào thời điểm
này sẽ khiến cho một bộ phận quan chức “thân Trung” bị lộ diện và sẽ bị
cô lập. Truyền thống người Việt xưa nay không thể chấp nhận những Trần
Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống, và nếu những nhân vật tái thế thời hiện đại
này bị cô lập quá sớm, Trung Quốc sẽ không còn nhiều cơ hội để thực hiện
chiến thuật mua chuộc, không chế lãnh đạo để sau đó bắt toàn bộ giới
lãnh đạo Việt Nam phải phụ thuộc vào ý chí của Bắc Kinh.
RFI : Thế còn bất lợi về hiệu quả kinh tế nếu Trung Quốc xâm lược Việt Nam?
Đây là câu hỏi khó trả lời nhất đối với Trung Quốc. Câu hỏi này cũng
dẫn đến một câu hỏi tiếp nối là Trung Quốc tấn công Việt Nam sẽ được lợi
gì, nếu thiệt hại về kinh tế của họ là khó có thể bù đắp được?
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt
Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Ít nhất 35% nguyên liệu
dùng cho sản xuất của Việt Nam phải nhập khẩu từ Trung Quốc, và cơ cấu
này đang gây khó rất lớn cho việc Việt Nam tham gia vào TPP, ứng với một
điều kiện không thể thay đổi của TPP là Việt Nam phải chuyển đổi vùng
nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc về các nước
trong khối TPP.
Chỉ từ sau năm 2000 đến nay, giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Trung
Quốc đã tăng chẵn 100 lần, và hiện thời Việt Nam đang phải nhập siêu từ
23-24 tỉ USD hàng năm từ Trung Quốc. Đó là một sự mất cân xứng quá lớn
và làm lợi rất nhiều cho Trung Quốc. Cũng cho đến nay, Trung Quốc có gần
940 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư gần 5 tỉ USD…
Những giá trị thương mại và đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam cho
thấy họ có khá nhiều việc phải lo lắng nếu chiến tranh nổ ra. Khi đó, cơ
chế nhập khẩu chính thức qua cửa khẩu Việt Nam sẽ đương nhiên chấm dứt,
rất nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sẽ khó lòng tồn tại được.
Cũng rất có thể sẽ xảy ra một làn sóng tẩy chay hàng hóa Trung Quốc
và càng làm khó cho sự tồn vong của giới đầu tư Trung Quốc tại Việt Nam.
Minh chứng mà chúng ta có thể thấy là sau vụ giàn khoan Hải Dương
Thạch Du 981, ở nhiều vùng và từ một doanh nghiệp lớn đến một bà bán tạp
hóa ở chợ, tâm lý ngán ngại nhập hàng Trung Quốc là khá phổ biến. Mặc
dù cho tới nay chưa có một chiến dịch nào về tẩy chay hàng Trung Quốc
được công bố chính thức, nhưng rõ ràng một số mặt hàng Trung Quốc vẫn bị
coi là ẩn chứa rủi ro độc tố như thực phẩm, nhựa… đã bị giảm đáng kể
sức tiêu thụ.
Với không ít bất lợi như vậy, tôi cho rằng Trung Quốc sẽ chưa dám mạo hiểm tấn công Việt Nam ngay vào thời điểm này.
RFI : Nhưng hiện thời vẫn
đang có thông tin có thể xảy ra chiến tranh, chẳng hạn như một tờ báo
Hàn Quốc đưa tin về việc có đến 300.000 quân Trung Quốc đã áp sát biên
giới Việt - Trung?
Tôi cho rằng tin tức đó chỉ đơn giản là chiến tranh tâm lý, do chính
Trung Quốc tung ra trên mạng Internet và cho vài tờ báo nước ngoài. Thậm
chí còn có tin đồn về lực lượng quân đội Trung Quốc dùng để tấn công
Việt Nam lên đến hơn 500.000 người, hoạch định sẽ công chiếm Việt Nam
trong đúng một tháng, và chiến tranh có thể diễn ra ngay vào mùa hè này,
thậm chí vào tháng Sáu năm 2014…
Bao giờ cũng vậy, trước hoặc sau mỗi hành động gây hấn, Bắc Kinh đều
sử dụng tối đa loa phóng thanh một chiều nhằm mục đích gây nhiễu. Một
chuyện khá khôi hài khác là giữa hai nhà nước Trung Quốc và Việt Nam
đang diễn ra một trận khẩu chiến mà dân Hà Nội gọi Bắc kinh là “Chí
Phèo”, còn Trung Quốc lại coi Việt Nam là nhân vật “AQ” trong tiểu
thuyết của nhà văn Lỗ Tấn…
Thực ra tôi không để ý đến hoạt động này nhiều. Vì điều đơn giản mà
chúng ta có thể rút ra là nếu Trung Quốc thực sự có kế hoạch gây xung
đột quân sự hoặc tấn công tổng lực Việt Nam, để giữ yếu tố bất ngờ trong
khai chiến, họ đã không cần phải khẩu chiến theo kiểu cù nhầy, hoặc
tung thông tin giả quá hung hãn để tạo tin đồn và gây xáo trộn đời sống
chính trị ở Việt Nam. Một dẫn chứng khác cũng dễ thấy là nếu Trung Quốc
có ý đồ tấn công quân sự, họ đã không phải dùng lại các tiểu xảo và chơi
xấu, như dùng “tàu lạ” - từ mà một số báo nhà nước ở Việt Nam cho đến
giờ này vẫn chưa thể chui ra khỏi chăn - để đâm húc tàu cá Việt mà đã
gây ra hai cái chết cho ngư dân ở Quảng Ninh vừa qua.
Theo tôi, sẽ chẳng có một hành động mạo muội xứng đáng nào từ phía
Trung Quốc ngay vào thời điểm này. Kể cả hiện tượng họ rút công nhân
Trung Quốc đang làm việc ở Hà Tĩnh về nước hay sơ tán chuyên gia cũng
chỉ là động tác tâm lý nhằm gây áp lực với Bộ Chính trị Việt Nam mà
thôi.
Khi nào Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam?
Khi nào Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam?
RFI : Nếu Vậy theo anh, Trung Quốc sẽ thực sự tấn công Việt Nam trong những điều kiện gì và vào lúc nào?
Trung Quốc chỉ tấn công Việt Nam nếu hội tụ các điều kiện: kinh tế
khủng hoảng, xã hội rối loạn, nội bộ chính trị phân hóa đủ sâu và có thể
tan vỡ, sức chiến đấu của quân đội giảm sút mạnh. Và cũng phải thêm một
điều kiện không thể thiếu: giới kinh tài Trung Quốc đủ sức chi phối và
lũng đoạn phần lớn một số ngành quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Hiện thời, nền kinh tế Việt Nam đang dợm bước chân vào khủng hoảng và
tất cả chỉ còn chờ thời gian. Bất ổn xã hội cũng đang mau chóng chuyển
thành rối loạn xã hội và có thể dẫn đến khủng hoảng xã hội. Nếu đến năm
2016-2017, kinh tế Việt Nam thật sự rơi vào khủng hoảng thì tất yếu xã
hội sẽ khủng hoảng theo. Khủng hoảng xã hội cộng hưởng với khủng hoảng
kinh tế hầu như chắc chắn sẽ dẫn đến khủng hoảng chính trị. Đó là điều
kiện cần và cũng là điều kiện đủ của một dân tộc trong vận khí suy vong.
Trong trường hợp đó, tôi không hy vọng là quân đội Việt Nam còn duy
trì được khả năng sẵn sàng chiến đấu như những năm trước. Và đó sẽ là cơ
hội vàng để nếu muốn và không quá bị chi phối bởi sự cô lập của quốc
tế, Trung Quốc có thể nuốt gọn Việt Nam trong một kế hoạch quân sự với
tỉ lệ ba chọi một.
RFI : Tại sao anh lại cho rằng Trung Quốc cần huy động quân đội ba chọi một, anh có thể giải thích cụ thể thêm được không ?
Xuất phát từ chiến thuật biển người truyền thống của họ.
Trong chiến dịch xâm lược biên giới năm 1979, toàn bộ lực lượng kể cả
hậu cần và dự bị của Trung Quốc là 600.000 quân. Trong khi đó, Việt Nam
chỉ chủ yếu đối phó bằng lực lượng quân sự địa phương và một bộ phận
lực lượng bộ đội chính quy. Có những trận đánh ở Cao Bằng, Lạng Sơn,
Hoàng Liên Sơn, thông báo quân sự hồi đó cho biết tỉ lệ đối kháng giữa
quân Trung Quốc và bộ đội Việt Nam lên đến 5/1 và 10/1. Tuy thế, cuộc
chiến vẫn kết thúc với thất bại của người Trung Quốc, chiến dịch xâm
lược đó đã chấm dứt với 60.000 thi hài của lính Trung Quốc.
Còn bây giờ, có những thông tin nghiên cứu cho biết tuy xét về số
lượng, Việt Nam là quốc gia có lực lượng quân đội hùng hậu nhất khu vực
Đông Nam Á với khoảng nửa triệu bộ đội chính quy và khoảng 5 triệu quân
dự bị, nhưng quân đội Trung Quốc lại duy trì số lượng đông thuộc loại
nhất trên thế giới, cùng chi phí quân sự đứng thứ hai chỉ sau Mỹ.
Đó là ưu thế để một khi phát động chiến tranh, Trung Quốc sẽ dễ dàng
huy động ít nhất nửa triệu quân từ các tập đoàn quân ở Vân Nam và Quảng
Tây, chưa kể hạm đội Nam Hải. Thậm chí tôi cho rằng với chiến thuật biển
người được duy trì từ cuộc chiến tranh Triều Tiên những năm 1950, Trung
Quốc có thể huy động một lực lượng tăng thiết giáp gấp nhiều lần Việt
Nam. Ngay cả với xe tăng họ T của Liên Xô cũ, Trung Quốc cũng có nhiều
tăng T72 trở lên, trong khi Việt Nam vẫn chủ yếu là tăng T54, T55.
RFI : Một số chuyên gia đánh giá rằng ưu thế quân sự của Trung Quốc có thể tỏ rõ trên mặt biển, nhưng còn trên đất liền thì sao?
Đúng là Trung Quốc chỉ còn thiếu tàu sân bay. Còn về quân chủng hải
quân, họ có đủ các loại tàu, kể cả tàu ngầm lớp kilo. Họ vẫn tự hào và
khoe khoang là chỉ riêng hạm đội Nam Hải của họ đã có thể làm chủ cả mặt
biển Đông.
Trong khi đó, địa hình duyên hải Việt Nam có lợi thế kinh tế và du
lịch là trải dài, nhưng trong chiến tranh điều đó lại thường là nhược
điểm vì có thể bị đối phương từ biển đánh úp bất cứ điểm bố phòng mỏng
manh hoặc sơ hở nào.
Tuy nhiên, đánh trên bộ thì lại khác hẳn. Dù được trang bị vũ khí và
khí tài quân sự tối tân và có vẻ được đánh bóng về khả năng thiện chiến,
nhưng quân đội Trung Quốc luôn đi sau Việt Nam khoảng một phần tư thế
kỷ về trải nghiệm và kinh nghiệm trận mạc. Đã sáu chục năm qua quân đội
Trung Quốc không thực sự chiến đấu, trong khi bộ đội Việt Nam chỉ mới
kết thúc chiến tranh tại chiến trường Campuchia từ cuối thập kỷ 80. Sự
so le thời gian như thế cho thấy phản xạ tác chiến của bộ đội Việt Nam
vẫn cao hơn binh lính Trung Quốc.
Thêm vào đó, nếu tấn công quân sự theo hướng xẻ dọc qua các vùng biên
giới phía Bắc về Hà Nội, quân đội Trung Quốc sẽ vấp phải địa hình rừng
núi hiểm trở mà lực lượng tăng thiết giáp của họ khó lòng phát huy được
hiệu quả tác chiến chiến thuật. Đến lúc đó, có thể Trung Quốc mới được
nếm trải chiến thuật chiến tranh du kích của người Việt Nam lợi hại như
thế nào.
Trong hầu hết các cuộc kháng Trung trong lịch sử, người Việt đã không
bao giờ bỏ trống hậu phương địch quân, đặc biệt tại những vùng sơn
cước. Theo tôi, trong trường hợp Trung Quốc tác chiến trên bộ dù với tỉ
lệ ba chọi một, xác suất chiến thắng của họ vẫn chỉ là năm ăn năm thua.
Họ cần phải chú ý là bộ đội đặc công của Việt Nam rất thiện chiến.
Nhưng đó chỉ mới là về sức kháng cự của quân đội Việt Nam. Còn nếu
nhà nước Việt Nam đủ hồi tâm để biết cách huy động sức dân thì một cuộc
chiến tranh nhân dân sẽ được hình thành, và đó là điều đáng sợ nhất đối
với bất cứ một cường quốc xâm lược nào.
RFI : Nếu một cuộc chiến
tranh tổng lực chưa được Trung Quốc phát động vào thời điểm này, họ có
thể làm những gì tiếp theo vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981?
Họ sẽ trở lại bài bản của những cuộc gây hấn và khiêu khích từ ít
nhất năm 2011 đến nay. Nghĩa là tạo mọi khó khăn đối với ngư dân Việt
Nam, dùng tàu cá hoặc tàu hải giám chủ động va chạm hoặc đâm chìm và có
thể dẫn tới tử vong cho ngư dân Việt. Trên bộ, họ có thể tiếp nối chuỗi
khiêu khích bằng những cuộc xung đột vũ trang quy mô nhỏ và có thể dẫn
đến sát thương bộ đội Việt Nam. Tình hình quấy rối như thế cũng có thể
tương tự những gì mà lực lượng Khmer Đỏ gây ra ở biên giới Tây Nam đối
với thường dân Việt Nam vào năm 1978.
Theo tôi, ý đồ của Trung Quốc là chờ đến năm 2016-2017, khi tình hình
Việt Nam xấu hẳn, họ sẽ tấn công theo kịch bản Nga - Crimée. Cần lưu ý
là khác hẳn Việt Nam, thế mạnh hiện thời của Trung Quốc là quyền lực tập
trung vào một cá nhân là Tập Cận Bình, và Trung Quốc vừa thiết lập quan
hệ tay đôi với Nga.
Tuy nhiên, không phải Trung Quốc luôn rảnh tay để hành động. Bản thân
Trung Quốc cũng gặp nhiều rắc rối: kinh tế có xu hướng suy thoái, phản
kháng xã hội dâng cao, các khu vực tự trị Tây Tạng, Tân Cương và Nội
Mông gia tăng bất ổn. Tình hình đó gần như tương tự với không khí xã hội
Trung Hoa vào lúc triều đình Mãn Thanh xua hai chục vạn quân do Tôn Sĩ
Nghị làm chủ tướng tràn vào Thăng Long trước một Lê Chiêu Thống đi bằng
đầu gối.
Do vậy, họa xâm lăng Trung Quốc vẫn có một hy vọng được giải tỏa phần
nào bởi chính nguy cơ tan rã từ bên trong của nền kinh tế và do đó của
chế độ độc đảng Bắc Kinh thiên về đàn áp như hiện nay. Nếu nguy cơ này
được xác nhận thì Trung Quốc dù có gây chiến tranh với Việt Nam cũng nằm
trong tình trạng bị suy yếu đáng kể chứ không thể gọi là mạnh mẽ.
Vấn đề còn lại là giới lãnh đạo chủ chốt ở Việt Nam có làm được gì để hạn chế hiểm họa từ Trung Quốc trong vài năm tới.
Nguyễn Tấn Dũng là nhân tố duy nhất?
RFI : Để đối phó với họa ngoại xâm ngày càng hiển hiện, anh có hy vọng nào vào giới lãnh đạo Việt Nam hiện thời?
Nếu không xét đến những gương mặt chính khách chưa xuất hiện, trong
tất cả những gương mặt hiện nay và trong khoảng hai năm tới, tôi chỉ hy
vọng vào một nhân tố duy nhất là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng hy
vọng này cũng chỉ mới manh nha và còn rất chập choạng.
Cơ sở để có thể có đôi chút hy vọng vào Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là
bởi ông ta đang trong tình thế phải “cứu nhà, cứu nước”. Nước mất thì
nhà tan. Nhưng muốn cứu nhà thì trước hết và dù muốn hay không cũng phải
cứu nước.
Sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, có vẻ ông Nguyễn Tấn Dũng đã dứt
khoát hơn trong chính sách chuyển hướng xoay trục sang phương Tây. Để
đối chọi với Trung Quốc, trước mắt người Việt cần ít nhất sự hỗ trợ của
Hạm đội 7 của Mỹ, sau đó là một bản hiệp ước tương trợ quốc phòng với
Hoa Kỳ, như kết quả mà Philippines đã vừa đạt được. Và cuối cùng, tốt
nhất Việt Nam trở thành một đồng minh quân sự với Hoa Kỳ như trường hợp
Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, cần chân thật mà nói rằng hy vọng duy nhất vào Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng rất có thể chỉ là một đốm lửa sớm nở tối tàn. Từ khi
nhậm chức thủ tướng vào năm 2006 đến nay, ông Dũng đã đưa ra khá nhiều
lời cam kết trước quốc dân đồng bào, nhưng thời gian sau những lời hứa
đó lại chỉ là một khoảng trống thất vọng mênh mông.
Còn bây giờ, khi nước đã đến chân và không thể không nhảy, người dân
Việt đang chờ đợi những hành động cụ thể của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
như tiến hành thủ tục kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, đưa ngay Luật
Biểu tình vào đời sống để người dân có cơ hội phản kháng Trung Quốc, chứ
không chỉ bằng vài câu tuyên bố có vẻ cảm tính và sẽ bị trôi ngay vào
lãng quên nếu không làm gì cả.
RFI : Xin rất cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ cho cuộc phỏng vấn hôm nay của RFI Việt ngữ.
RFI : Xin rất cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ cho cuộc phỏng vấn hôm nay của RFI Việt ngữ.
Chúng ta nên viết kiến nghị dưới hình thức thư ngỏ lên lãnh đạo Đảng Cộng Sản rằng mọi chuyện có thể giải quyết qua đấu tranh ôn hòa trong khuôn khổ của các luật lệ do Trung Quốc đề ra . Nên nhấn mạnh rằng nếu có hữu nghị thật sự, chúng ta sẽ đánh đổi cho bằng hết chủ quyền lãnh thổ và đất nước như đã từng làm với Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan và một đống lãnh thổ biên giới . Một điều cũng cần nhấn mạnh là dù Trung Quốc có xử dụng bạo lực tới đâu, Việt Nam kiên quyết phản biện bằng ôn hòa và phi bạo lực, quyết không bắn lại dù một viên đạn . 64 chiến sĩ làm bia tập bắn miễn phí ở Gạc Ma kỳ nào là minh chứng tuyệt vời nhất của cách đấu tranh ôn hòa, phi bạo lực đó . Đảo Gạc Ma và 64 chiến sĩ là những mất mát đã tiên liệu trước và có thể chấp nhận được . Trung Quốc có chiếm gọn Việt Nam, chính quyền Việt Nam cũng quyết không bắn một viên đạn, quyết lúc nào cũng phản biện ôn hòa, phi phí lực và theo luật pháp Trung Quốc . Trung Quốc hãy nghĩ tới tấm lòng trung thành của chính phủ Việt Nam, tới tâm sáng của đảng Cộng Sản VN mà nên chiếm VN bằng hòa bình, bằng ý thức hệ, bằng những thành công tột bực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa Xã hội của mình .
RépondreSupprimerNếu chiếm VN bằng vũ lực, Trung Quốc chỉ giữ được VN khoảng 100 năm . Nếu chiếm bằng ý thức hệ, bằng hữu nghị không viển vông, VN ngàn đời là của Trung Quốc . Trung Quốc lúc nào cũng ở vị trí lãnh đạo hết .
Tháng trước Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nói không sai: tất cả những điều cộng sản VN nói, chỉ là để mị dân mà thôi. Bằng ngoại giao, bằng pháp lý, bằng dư luận cũng không nhổ được giàn khoan 981 của TQ ( hiện nay cộng sản VN, còn làm giả cầy điều này), ngoài liên minh quân sự với Mỹ. CHHV nói:" hiện nay cộng sản VN vẫn chưa bắt tay với Mỹ đâu" Tình hình đang diễn ra như tiến sĩ nói:" tiếp đến mất Trường Sa, rồi đến cả biển Đông". Thực tế giàn khoan 981 của TQ là cột mốc di động của TQ. Trước chúng đặt giàn khoan 981 với cột mốc là Hoàng Sa tính ra chỉ 17 hải lý, nay chúng dùng giàn khoan 981 tính làm cột mốc, để chiếm Trường Sa, chúng sẽ di dần gian khoan sát Trường Sa của VN, lúc đó gần như Trường Sa sẽ bị phong tỏa, sau đó là bị xóa sổ dần. Sau khi đặt giàn khoan, phản ứng lấy lệ, khiếp nhược của hệ thống cộng sản VN, đặc biệt là lời phát biểu bán nước của tướng mặt lợn Phùng quang Thanh, tại hội nghị Diễn đàn an ninh Shangri-La 5/2014, qua hội nghị Mỹ, Nhật thấy bảo vệ VN quá vô duyên, ngao ngán với cộng sản VN chống xâm lược kiểu bán nước, VN tự cô lập mình,TQ đã nhận được tín hiệu đèn xanh của tập đoàn cộng sản bán nước VN. Quá trình thôn tính VN, lúc này thuận lợi hơn bao giờ hết, quá trình chiếm Trường Sa, tiếp đến là Biển Đông, sẽ diễn ra như việc đặt giàn khoan 981 vừa qua. Cùng với việc TQ chiếm Trường Sa, VN sẽ bịt thông tin, thông tin sai lạc, đàn áp người có ý đồ biểu tình, Bắc Kinh và Hà Nội sẽ phối hợp nhịp nhàng, ngoài biển TQ cứ nhẹ nhàng chiếm, trong nước cộng sản đàn áp bỏ tù người yêu nước
RépondreSupprimer