Nhà báo Phạm Chí Dũng |
Như RFI đã loan tin hôm qua
29/04/2014, tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) có trụ sở tại
Paris, nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới 3 tháng 5, lần đầu tiên đã công
bố danh sách « 100 anh hùng thông tin » năm 2014, gồm các nhà báo và
blogger ở 65 quốc gia trên thế giới. Trong số ba người Việt Nam được
vinh danh lần này, có nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, một cây bút bình luận
sắc sảo đã nhiều lần trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.
Ngay sau khi biết được thông tin này, tuy rất bất ngờ nhưng anh Phạm Chí Dũng cũng rất sẵn lòng nhận lời trao đổi với RFI.
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng. Anh vừa
được RSF vinh danh trong số 100 « anh hùng thông tin » trên thế giới năm
2014, trước hết anh có thể cho thính giả RFI biết cảm nghĩ của anh về
sự kiện này ?
Nhà báo Phạm Chí Dũng : Với cá nhân tôi, Tổ chức
Phóng viên Không biên giới (RSF) là một kỷ niệm rất đặc biệt. Cách đây
mười năm, tôi còn mang trên mình nhiệm vụ phải đọc kỹ tất cả những thông
tin và bài viết của RSF để báo cáo cho cấp trên. Còn quan điểm của cấp
trên lại chỉ nhìn RSF như một “thế lực thù địch” luôn tìm cách xuyên tạc
và chống phá Nhà nước Việt Nam. Khi đó, tôi không thể ngờ được là đến
một ngày như hôm nay, một tổ chức đã có thời “bên kia chiến tuyến” lại
dành cho tôi một sự vinh danh.
Còn lần này, một lần nữa tôi bày tỏ lời cám ơn đến RSF. Chính tổ chức
này là địa chỉ quốc tế đầu tiên lên tiếng phản đối Nhà nước Việt Nam và
đòi trả tự do ngay sau vụ việc tôi bị khởi tố và bị bắt giam vào tháng
7/2012 vì cái gọi là “âm mưu lật đổ chính quyền”.
Thực tình là chỉ ít năm gần đây, tôi mới dần nhận ra giá trị của tự
do báo chí. Xã hội việt Nam không thể có tự do báo chí nếu nhà báo không
được tự do về tư tưởng và quan điểm sáng tác. Nói cách khác, cho tự do
đôi tay nhưng bóp nghẹt tâm hồn thì chẳng khác nào giết sống một thực
thể sáng tạo. Đáng buồn là ở Việt Nam đã phổ cập cuộc tra tấn tâm hồn
như thế từ quá nhiều năm qua.
Tình cảm hàm ơn của tôi đối với RSF lại càng làm cho tôi ngay lập tức
nhớ đến những nhà báo còn nằm trong nhà tù chế độ như Điếu Cày Nguyễn
Văn Hải, Trương Duy Nhất và những người khác nữa. Theo tôi, nhà báo cần
được vinh danh không chỉ bởi số bài viết và hiệu ứng dư luận sau bài
viết, mà là thân phận và số phận của họ.
Giá trị của số phận con người càng được nâng lên khi họ bị trói buộc
càng lâu giữa bốn bức tường nhà tù. Trên thế giới đã có hàng ngàn trường
hợp cần được vinh danh như thế. Mà Việt Nam lại là quốc gia đứng thứ ba
trên thế giới với 18 nhà báo đang bị lao tù, theo một thống kê của Tổ
chức Bảo vệ Nhà báo (CPJ), với phần lớn trong số đó xứng đáng có số phận
của những người được tôn vinh vì hành động can đảm nói lên sự thật.
Sự thật ở những quốc gia còn trong vòng kềm tỏa của hệ tư tưởng một
chiều và độc tài thật là đắt giá. Vào những năm 2007, 2008, khi chứng
kiến một số nhà báo chống tham nhũng và bị truy tố và bị kết án tù, tôi
đã thất vọng đến cùng cực. Cùng là đồng nghiệp với họ, tôi hiểu rõ rằng
họ chỉ muốn nói lên sự thật về những chuyện đen tối chưa bị bóc trần,
đưa ra ánh sáng công luận và lấy lại một phần niềm tin cùng công bằng
cho người dân đối với xã hội.
Trong trường hợp đó, nếu chính quyền biết cách khai thác và tận dụng,
hẳn giới chính khách đã có được một lợi thế mị dân không nhỏ. Nhưng
điều đáng tiếc đối với chính quyền này, và cũng là hậu quả không tránh
khỏi đối với họ, là đã không biết cách xoa dịu được dù chỉ những bất mãn
nhỏ của người dân và báo chí. Kết quả là một số nhà báo hoặc bị kỷ luật
hoặc phải vào tù, còn niềm tin dân chúng đối với chính thể càng có cơ
hội tuột rơi xuống hố.
RFI : Tình hình như thế đang đặt ra những câu hỏi nào đối với giới báo chí Việt Nam, theo anh ?
Những câu hỏi đó là : Vì sao tuyệt đại đa số báo chí nhà nước lại im
lặng trước hiện tồn quá đỗi bất công và bức xúc của xã hội đương đại? Vì
sao lại không có nổi một nền báo chí độc lập đúng nghĩa ở Việt Nam, cho
dù đảng và chính quyền vẫn không ngớt tuyên bố về “tự do báo chí” ở đất
nước có đến 800 tờ báo với hơn 17.000 phóng viên có thẻ? Và chưa phải
cuối cùng, vì sao đã chưa bao giờ có nổi một nhà báo quốc doanh nào được
tiếp cận, dù chỉ là ứng viên, của một giải thưởng báo chí quốc tế danh
giá như Hellman - Hammett hay Pulitzer?
Không phải là không có nhà báo tâm huyết. Bạn bè của tôi cách đây hai
chục năm có khá nhiều người luôn đau đáu với bất công xã hội và suốt
ngày chỉ tìm cách cất lên tiếng nói bảo vệ người dân. Thế nhưng sau một
thời gian, người ta nhận ra một sự thật cay đắng rằng càng chống tham
nhũng thì tình trạng vơ vét lại càng nổi lên như nạn giặc giã. Thế rồi
một số người buông bút, số khác chỉ làm báo và viết báo vật vờ. Cho tới
giờ số người tâm huyết đã giảm hẳn, trong khi tâm thế vô cảm đã trở nên
tràn lan trong giới phóng viên báo chí lề phải.
Sự trì đọng về não trạng của báo chí quốc doanh nói chung và một phần
giới phóng viên lề phải nói riêng, đã khiến cho họ mất dần sức thuyết
phục đối với công chúng, và giảm dần sức cạnh tranh trước hệ thống
truyền thông xã hội trong ít nhất ba năm qua. Bị khuôn phép bởi những
chỉ đạo hàng tuần và hàng tháng của Ban Tuyên giáo Trung ương và cơ quan
quản lý thông tin các tỉnh thành, ban biên tập các báo không thể thoát
nổi vòng kim cô phải nói và viết theo một thực đơn đã được cắt cử.
Dù xã hội đang lao dốc trầm trọng với nạn tham nhũng không có thuốc
chữa, hàng triệu dân oan đất đai, hàng trăm ngàn nạn nhân của ô nhiễm
môi trường, hàng ngàn cuộc đình công của công nhân hàng năm, vài chục
cái chết của người dân trong đồn công an…, đa số báo chí nhà nước vẫn
một mực im lặng. Chỉ có thể giải thích: đó là thói quen của sự sợ hãi.
RFI : Đó là báo chí chính thức của Nhà nước,
thường được mệnh danh là « lề phải ». Nhưng trên các mạng xã hội, còn có
những thông tin « lề trái », thì anh nhận xét thế nào ?
Ngược lại với báo chí nhà nước, thì báo chí « lề trái » với thông tin
không hẳn là nhanh nhạy và đa dạng nhưng lại thực chất hơn rất nhiều,
hệ thống này đã khuấy đảo một phần không nhỏ trong số 1/3 dân chúng biết
sử dụng Internet ở Việt nam.
Dám nói và dám viết về những vấn đề thuộc về quan điểm tư tưởng chính
trị, dân sinh và dân quyền, những cây viết của giới dân chủ và bất đồng
chính kiến ở Việt Nam đã làm nên một cuộc cách mạng thông tin trong
những năm qua, cho dù mặt bằng nghiệp vụ của họ còn khá xa mới bằng được
giới nhà báo lề phải vốn được đào tạo bài bản. Bất chấp việc phần lớn
cây viết của lề trái không được giới tuyên giáo đảng xem là “nhà báo”
chỉ bởi lý do họ không có thẻ nhà báo do Bộ thông tin và Truyền thông
Việt Nam cấp, họ vẫn cung cấp những món ăn tinh thần cho người đọc dồi
dào hơn hẳn báo chí nhà nước.
Nhưng từ năm 2013 đến nay, ngay cả một số quan chức của ngành thông
tin nhà nước đã phải nói xa gần về việc truyền thông xã hội đang lấn
lướt báo chí nhà nước. Vậy là vấn đề trở nên rất gần gũi là nếu trong
tương lai gần, xã hội dân sự được Nhà nước Việt Nam dần phải thừa nhận
và dần mở ra, một luồng gió mới cũng sẽ lan tỏa đến khi vực báo chí tư
nhân, làm nảy nở những chồi non trong làng báo độc lập. Khi đó, liệu báo
chí quốc doanh có thể cạnh tranh được với giới báo chí độc lập hay
không ?
Câu hỏi này đang dần được hóa giải. Từ cuối năm 2013 và đầu năm 2014,
không gian xã hội dân sự đã mở ra khá nhanh, ít nhất về số lượng tổ
chức hội đoàn độc lập. Trong xã hội dân sự, báo chí độc lập lại có vai
trò gần như quyết định trong giai đoạn đầu hình thành các tổ chức dân
sự.
Như vậy, nếu đến một lúc nào đó báo chí tư nhân được hình thành ở
Việt Nam, chắc chắn hệ thống truyền thông xã hội, với thế mạnh dám biểu
đạt tự do tư tưởng, sẽ chiếm ưu thế hơn hẳn báo chí quốc doanh, cho dù
tuyệt đại đa số các tờ báo độc lập không hề có tiền để trả nhuận bút.
Tức khi đó, tiếng nói của báo chí độc lập sẽ còn thuyết phục nhiều hơn
hẳn đối với dân chúng, và càng làm cho niềm tin của độc giả đối với các
tờ báo bảo thủ, xa rời hoặc phản lại quyền lợi người dân bị sụt giảm tệ
hại.
RFI : Có nghĩa là báo chí « chính thống » đã im lặng quá lâu ?
Quá lâu ! Và giờ đây, chỉ có thể là vào lúc này, chính lúc này, khi
mà ngay cả giới quan chức cũng không thể phủ nhận một không khí đen đúa
của xã hội đang trùm lên đầu dân chúng và cả trên đầu họ, giới báo chí
và các nhà báo lề phải rất cần day dứt rằng tại sao họ đã cầm giữ thái
độ im lặng quá lâu. Quá lâu trước cả những vụ chết chóc thảm khốc nhan
nhản trong xã hội đồng loại của họ.
Thế nhưng tôi cho rằng thức tỉnh không bao giờ là quá muộn, chỉ là
làm sao để tinh thần này diễn ra sớm hơn mà thôi. Vì thức tỉnh càng sớm,
xã hội sẽ càng đỡ bạo liệt và người dân càng đỡ bần hàn. Đó chính là
trách nhiệm phản biện của báo chí. Để đến một lúc nào đó, báo chí lề
phải và lề trái có thể hòa làm một, trở thành tiếng nói chung cho xã hội
dân sự thống nhất ở Việt Nam.
Khi đó, dù muốn hay không, chính thể cầm quyền cũng bắt buộc phải tôn
trọng tiếng nói của dân chúng thông qua báo chí, phải điều chỉnh những
chính sách bất hợp lý và hủy bỏ những chính sách sai lầm, thậm chí phải
“tái cơ cấu” cả những thế lực nhân sự tham nhũng và tai tiếng.
Mỗi nhà báo là một mũi dao. Đầu nhọn của mũi dao đó chính là tinh
thần, ý chí và trí tuệ phản biện. Với chế độ này và những thể chế về sau
ở Việt Nam, phản biện sẽ không bao giờ là thừa thãi, với sứ mệnh tối
thiểu của nó là làm cho xã hội bớt đen đúa và dân nghèo bớt cực khổ. Có
như thế, nhà báo mới xứng đáng với cái tên riêng của họ.
Giờ đây, sự vinh danh của RSF đối với giới báo chí độc lập ở Việt Nam
mới chỉ là bước đi đầu tiên trong tinh thần hướng về mục tiêu xứng đáng
và đáng tôn vinh như thế.
RFI : Xin rất cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng, một
trong số « 100 anh hùng thông tin » trên thế giới vừa được Phóng viên
Không biên giới vinh danh.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.