1
Tôi rất yêu bài “Ngày Về” của Hoàng Giác.
Tôi có thói quen phàm yêu mến nghệ sĩ nào thì cũng phải tìm
gặp bằng được. Thế mà ở cùng một thành phố tôi lại không có duyên gặp ông lấy
một lần, để được bắt tay ông một cái, để được nhìn vào mắt ông mà nói một lời
câm rằng tôi yêu lắm lắm bài hát ấy.
“Ngày Về” được
người nghe đón nhận nồng nhiệt ngay từ khi nó ra đời, khi cuộc kháng chiến
chống Pháp bùng nổ. Các đoàn Tuyên truyền Xung phong trong khi lang thang lưu
diễn ở ”hậu phương”, tức vùng không bị Pháp chiếm đóng, bao giờ cũng dùng nó
làm “bài tủ” để diễn đạt nỗi lòng chiến sĩ xa nhà.
Ấy là vào giai đoạn những bậc lãnh đạo đạo cao đức trọng của
cuộc kháng chiến chưa kịp húp cả cặn món tạp pí lù mao-ít để buộc tội những bài
hát như thế là thứ nhạc ủy mị, gọi tắt là nhạc vàng, và ra lệnh cấm chúng.
Trong những năm xa xưa tôi mới chỉ thích nó. Chứ để yêu nó,
để thấy nó là bài hát nói thay lòng mình, là tâm sự của mình, thì phải đến khi
chính mình bị rơi vào hoàn cảnh không thể biết khi nào mới được trở về với tổ
ấm của mình.
Những người từng ở tù nhiều năm như tôi đều mơ có một ngày
được “Tung cánh chim tìm về tổ ấm”.
Trong tù, nhiều hơn bất cứ bài hát nào khác, Ngày Về được hát
ở mọi nơi mọi lúc. Nó vẳng tới tai tôi trong phòng thẩm vấn, nó vang lên giữa
trời nắng quái đầm đìa mồ hôi hay trong cái lạnh căm căm của ngày lao động khổ
sai, ngay trong xà lim biệt giam, chân trong cùm, tay trong xích. Lần nào cũng
như lần nào, bài hát làm tôi xúc động. So với các danh ca chuyên nghiệp, những
ca sĩ tù đủ mọi giọng, từ nam trầm tới nam cao, kể cả giọng vịt đực, giọng ống
bơ rỉ, là những giọng ca giàu nhạc cảm nhất khi cất tiếng hát tác phẩm để đời
của Hoàng Giác.
Liên quan tới cái ước mơ ấy, tôi phải nhắc tới một đạo luật
do Ban Thường vụ Quốc Hội ban hành, do chính ông vua mất ngai Trường Chinh ký,
là luật “tập trung cải tạo”.
Luật này được ban vào năm 1961 dưới hình thức nghị quyết của
Quốc Hội chứ không phải sắc lệnh là cái thường phải do chủ tịch nước ký. Bộ
Công an được trao toàn quyền thi hành nó: bất cứ công dân nào bị cơ quan công
quyền coi là “có hại cho an ninh xã hội” là tống vào tù không cần xét xử. Người
bị bắt sẽ ở trong các “trại cải tạo” ít nhất ba năm, gọi là một lệnh. Hết ba
năm mà chưa “cải tạo tốt” thì ở thêm một lệnh ba năm nữa, cứ thế kéo dài. Không
mấy người được trở về sau một lệnh. Người ở ba bốn lệnh là bình thường. Người
tù có án biết ngày nào họ sẽ ra tù. Người tù “tập trung cải tạo” chỉ có thể mơ
về ngày đó.
Tân vương Lê Duẩn tỏ ra độ lượng khi cho Trường Chinh thỉnh
thoảng được phô ra cái oai còn sót lại. Trong trường hợp này sự cho phép ấy có
nghĩa Lê Duẩn đồng tình với Trường Chinh, Lê Duẩn là đồng lõa. Sau chiến thắng
1975, Lê Duẩn còn đem cái luật bất nhân ấy dùng cho những người bại trận. Những
người tù “tập trung cải tạo” nay được ở chung với những chiến binh đã
buông súng chưa kịp làm gì có hại cho cái “an ninh xã hội” của ông ta.
Tôi không thích viết về chính trị. Cái tạng tôi vốn thế.
Nhưng không thể không đụng tới nó khi nói về ước mơ của những người tù không có
án.
Ngày về của tôi đến đột ngột.
Một buổi sáng như mọi buổi sáng, tù tập họp ở sân trại để đi
lao động thì bất ngờ được nghỉ làm để nghe lệnh tha.
Mặt những người tù “tập trung cải tạo” lâu năm sáng
bừng, tiếng rì rầm lan khắp sân trại.
Mấy cái bàn được bày ra từ sáng sớm, trên đó là những tập hồ
sơ dày cộm. Cán bộ trại mặt mũi nghiêm trang, lăng xăng đi lại.
Những người tù chưa lâu, mới ở có một lệnh hoặc hai lệnh,
thì ngán ngẩm ngồi thừ - còn lâu mới tới lượt họ.
Người của ban giám thị trại lần lượt đọc tên từng phạm nhân
được tha gồm các mục: tên, tuổi, nguyên quán, trú quán, can tội, án phạt (nếu
có án), số tù v.v…
Gọi đến tên ai thì người đó đứng lên, bỏ cái nón mê rách
xuống, cắp nó trước bụng, mắt tràn trề hy vọng ngước nhìn các thiên thần trong
bộ cánh màu hoàng thổ, chờ đợi các vị thay mặt thượng đế cộng sản tuyên đọc ân
sủng.
Tôi hoàn toàn dửng dưng.
Cảnh này hầu như năm nào cũng có, hiếm năm không, chẳng phải
chuyện đặc biệt. Có năm tha ít thì người ta không bày vẽ dềnh dàng, cho “trật
tự trại” gọi tù nhân lên văn phòng nhận giấy tha rồi cho cút.
Tôi dửng dưng vì tôi ở đây như mọi người tù khác, nhưng lại
là thứ tù không giống ai. Không phải mình tôi biết điều này. Những bạn tù của
tôi cũng biết. Mọi người đều có số tù, tôi thì không. Khi một đội trưởng ở trại
Tân Lập lải nhải đòi tôi phải nói cho anh ta biết số tù để ghi vào sổ đội thì
tôi phát bực, mới phát ra một con số chợt đến trong đầu: 111. Số tù ngẫu hứng
ấy rồi được cả các “quản giáo”, tên chữ của chức cai tù, mặc nhiên thừa nhận.
Từ lúc tôi bị bắt vào Hoả Lò rồi chuyển qua mấy trại cho tới
khi lên trại Phong Quang, tôi đã được nghe đủ thứ lời giải thích cái sự tù của
tôi. Khi thì người ta bảo tôi được đặt trong chế độ tạm giữ thuộc một vụ án “xử
lý nội bộ”, tôi khai báo xong thì cho về. Khi thì họ doạ tôi sẽ chuyển tôi sang
dạng tập trung cải tạo nếu tôi không ngoan ngoãn. Đó là cách đảng cộng sản xử
lý những người bị bỏ tù trong vụ án có tên dài thòng là: “Vụ án tổ chức
chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình
báo cho nước ngoài”. Tôi là tù của đảng cộng sản, không xứng với bất cứ tội
danh nào theo luật pháp nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nói tóm lại, dạng gì thì dạng, tôi đã ở tù tới năm thứ chín.
Buổi đọc lệnh tha kết thúc.
Các cán bộ sắp xếp giấy tờ đứng lên. Sân trại như bị một cơn
lũ quét, phút chốc vắng tanh. Tôi đang trên đường trở về phòng giam thì bỗng
nghe người ta xướng tên tôi.
Tôi dừng bước, nghĩ mình nghe nhầm. Nhưng không phải. Tên
tôi được xướng lên một lần nữa, rõ hơn.
Viên phó giám thị, một anh chàng xương xẩu, mặt quắt xám
xịt, quần áo lúc nào cũng bảnh choẹ, ra dáng người đại diện của nhà nước hơn
bất kỳ “quản giáo” nào khác, oai vệ đưa tay vẫy tôi:
- Phải, là anh!
Tôi đứng sững, nhìn y.
Khác các lệnh tha được đọc trước đó, sau phần tên, tuổi,
nguyên quán, trú quán… mà y đọc bằng giọng trịnh trọng tôi không thấy có mục
can tội, án phạt, không có cả số tù.
Tôi kể dài dòng văn tự ngày tôi được ra tù để những người
quan tâm đến những chi tiết biết nó diễn ra như thế nào. Cũng là tiện dịp cung
cấp cho tên lãnh tụ lưu manh của một tổ chức ngụy dân chủ ở Paris, kẻ không mệt
mỏi tố cáo tôi là tình báo cộng sản, có thêm mắm muối cho vào vở khổ nhục kế,
trong đó tôi là nhân vật chính.
“Tôi rời trại Phong Quang ngày 7 tháng Chín năm 1976.
Cuộc giã biệt đời tù của tôi, trái với hình dung thông
thường, diễn ra không êm ả. Chuyện là thế này.
Theo lệ, người tù ra trại (tức là được tha, mãn hạn hoặc
không có hạn để mà mãn) phải viết một bản nhận tội, một bản cam đoan không tái
phạm, không tiết lộ bí mật của trại giam. Bản nhận tội, bản cam đoan đã được
soạn sẵn thành mẫu, chỉ việc chép lại, ký tên, là xong.
Tù được tha làm thủ tục ấy cái roẹt, nộp Ban Giám thị rồi
cuốn xéo. Không ai nấn ná thêm một phút.
Không hiểu sao vào đúng cái thời khắc sung sướng nhất đời tù
của bất cứ ai tôi lại nổi điên, nhất định không chịu làm cái việc đối với mọi
người chỉ có giá trị hình thức.
Tôi nói với những cán bộ bàn giấy của trại giam rằng tôi sẵn
sàng ở tù thêm, ở bao lâu nữa cũng được, nhưng tôi sẽ chờ cho tới khi việc giam
giữ tôi được làm cho sáng tỏ. Tôi nói: tôi không có tội. Mà đã không có tội thì
không thể nhận tội được.
Nhùng nhằng một hồi, người ta hỏi nhau, người ta chụm đầu
lại bàn tán, rồi chạy đi thỉnh thị cấp trên.
Viên phó giám thị chạy đến, gãi đầu suy nghĩ, rồi rủ tôi về
phòng anh uống trà.
Đó là một anh công an đã đứng tuổi, tốt bụng, dễ thương,
được tù mến.
- Chúng tôi chẳng qua chỉ là thủ kho thôi, anh ơi. Lệnh trên
bảo nhập thì chúng tôi cho hàng vào, lệnh trên bảo xuất thì tôi cho hàng ra - anh
phân trần, giọng phiền não - Trên lệnh xuống bảo xuất mà anh không chịu ra thì
chỉ khổ mấy thằng tôi thôi. Ai biết các ông ấy tính cái gì, mình không thực
hiện được việc các ông ấy bảo làm, thì rồi ra các ông ấy hỏi han, kiểm điểm,
rắc rối lắm.
Tôi nhìn anh, ái ngại. Tôi thông cảm hoàn cảnh khó xử của
anh. Anh là người đối xử với tôi tử tế. Mấy hôm trước chính anh chạy vào trại
ra hiệu gọi tôi ra một chỗ vắng rồi thì thào báo có tin đồn Mao Trạch Đông sắp
chết: "Anh được về đến nơi rồi! – anh nói, giọng hồ hởi, vui vẻ - Mao
chết là xong hết". Tôi bảo anh: "Chớ vội mừng. Con cháu Mao
đông lắm!"
Trà thuốc xong, chúng tôi thỏa thuận với nhau mỗi bên nhân
nhượng một ít. Tôi ra về không viết bản nhận tội nữa, tôi mặc, anh làm thế nào
thì làm, tự anh phải xoay xỏa, tìm cách mà chống đỡ với trên. Đổi lại, tôi phải
nhận tờ Lệnh Tạm Tha, trong đó tội của tôi được ghi rõ tội "phản động
chống chế độ".
Phó giám thị dỗ tôi:
- Anh đi đường phải có giấy tờ. Không có giấy tờ là lôi thôi
lắm. Trại không có thứ giấy nào khác để cấp cho anh, không có quyền. Thôi thì
cứ cầm lấy nó, thủ tục nó thế. Rồi anh còn cần đến nó để làm thủ tục hộ khẩu
nữa đấy.
Tờ giấy trong tay tôi ghi rành rành LỆNH TẠM THA. Nhà nước
muốn người được ra tù phải luôn nhớ rằng anh ta chỉ được tạm tha thôi, anh mà
vớ vẩn là sẽ bị tống lại vào tù ngay tức khắc, không oong đơ gì hết.
Cái Lệnh Tạm Tha ấy tôi giữ được hơn một tuần. Anh công an
khu vực, lại cũng một anh chàng đẹp trai và dễ thương, ăn nói nhỏ nhẹ, lịch sự,
đến thăm tôi, đòi xem. Xem xong anh ta nhét luôn vào xà-cột, bảo để làm chứng
từ gốc cho việc nhập hộ khẩu sau này.
Hoàng Minh Chính tiếc mãi: "Bằng ấy anh em, mỗi mình
cậu nắm được tờ giấy quý như thế làm bằng mà để xổng mất. Tài liệu lịch sử
đấy!"
Đó là nguyên văn trích trong hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày
hơn ba mươi năm về trước.
Hoàng Minh Chính tiếc là phải - đúng là chỉ mình tôi có tờ
Lệnh Tạm Tha, anh em khác trong vụ án chỉ được công an đọc cho nghe chứ không
cho giữ. Họ đều được đưa ra khỏi trại giam, bỏ lên xe đưa thẳng tới nơi bắt
buộc cư trú và lao động chứ không được về nhà. Nó là bằng chứng chúng tôi từng
bị đảng cộng sản bỏ tù. Các thế hệ sau sẽ không tìm đâu ra một bằng chứng văn
bản học. Nhưng nếu nhà cầm quyền đã quyết không muốn chúng tôi giữ nó thì họ
chẳng thiếu gì cách.
Do lằng nhằng việc giấy tờ, tôi là người cuối cùng ra khỏi
trại.
Tôi còn ra chậm hơn nữa vì anh em tù tự giác đã chờ tôi ở
bên ngoài văn phòng trại bắt tôi phải nán lại ăn một bữa tươi với anh em gọi là
tiệc chia tay. Tiệc có gà béo, có rượu sắn đổi chác với dân mấy làng gần đấy.
Những người chưa từng ở tù đã không ít lần chê tôi không tả
chi tiết cái sự ở tù nó thế nào. Tôi phải nói ngay rằng tôi vốn không thích văn
học tố khổ. Những tác phẩm kể lể cảnh khổ trong tù nhiều vô kể, cái nọ đầy đủ
hơn cái kia, cái nọ tả hay hơn cái kia, nhưng không hiểu sao chúng không hấp
dẫn tôi. Tù là khổ rồi, khổ lắm, nhất là vào thời tôi, khi dân chúng ở bên
ngoài nhà tù cũng khổ, ăn uống so với tù cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Tù có
đói không? Có, và đói nhiều. Có rách không? Cũng có, nhưng không nhiều lắm. Cái
khổ nhất của người tù là ở chỗ họ không biết ngày về.
Cái sự tù mù ấy mới là cái khổ nhất.
Trong tù cũng có một số người sống sướng hơn những người
cùng cảnh. Ấy là tù “tự giác”, tù “nhà bếp”. Tù “tự giác” là những người tù
được tin tưởng sẽ không trốn, theo nhận định của ban giám thị. Những người được
cho làm tù “tự giác” phần nhiều là tù có án sắp mãn hạn, tù tập trung cải tạo
không có gia đình hoặc quê quán ở quá xa để có thể trốn về, và vài nguyên cớ
khác. Tù “tự giác” nghĩa là tù làm việc trại giao không có lính áp giải. Nhờ
thế mà họ kiếm chác được nhiều thứ - trà trên đồi, thú trên rừng, cá dưới suối,
chưa kể những đồ vật mua bán đổi chác với tù mới đến còn nhiều đồ mang theo rồi
đem bán lại cho dân lấy tiền mua thịt, mua gà. Tôi dùng chữ linh đình để gọi
bữa tiệc chia tay mà anh em “tự giác” dành cho tôi không phải là phóng đại,
càng không phải bịa đặt.
Trung úy Bưởi phụ trách giáo dục trại bịn rịn tiễn tôi.
Chúng tôi có thời gian khá dài làm việc cùng nhau. Tôi đang
làm ở đội xẻ gỗ thì bất ngờ được gọi lên làm “văn hóa trại” dưới quyền
Bưởi. Không phải tự nhiên mà tôi được hưởng ân huệ ấy. Ông Lê Giản, nguyên tổng
giám đốc Nha Công an thời kháng chiến chống Pháp, đồng chí cách mạng và là bạn
thân của cha tôi, nói với ông Lê Hữu Qua, cục trưởng Cục Quản lý Trại giam là
cán bộ cũ dưới quyền ông, nhờ ông tìm cách cho tôi được làm công việc không đến
nỗi quá nặng nhọc.
Cái nước mình nó thế. Bên cạnh những quy định khe khắt đôi
khi vẫn còn chỗ cho sự nể nang.
Tôi nhận công việc này có mà cả. Thứ nhất, tôi không làm
“ăng ten” (chỉ điểm). Thứ hai, tôi sẽ không tuân lệnh các “quản giáo” trói cánh
tiên tù, đánh tù.
Bưởi đồng ý. Không biết có phải do ban giám thị e ngại lời
uỷ nhiệm của ông cục trưởng hay người ta cho rằng đề nghị của tôi là phải mà
trong suốt thời gian làm “văn hoá trại” tôi không khi nào phải làm những
việc mà “trật tự trại: hoặc “văn hóa trại’ thường phải làm.
Công tác giáo dục trong nhà tù cũng na ná công tác tuyên
giáo ngoài nhà tù. Tuyên giáo là tên gọi tắt việc tuyên truyền và giáo dục nhằm
bắt dân chúng tuân phục mọi đường lối chính sách của đảng.
Làm công tác tuyên giáo trong nhà tù rất dễ - chỉ việc bắt
tù vào khuôn vào phép bằng việc phổ biến những quy định và hạ lệnh kỷ luật.
Không phải một mình Bưởi làm công việc này. Mọi cán bộ trại giam đều làm nó,
nhưng bằng cách dễ hiểu hơn – phạt lao động, đánh bằng roi, trói “cánh tiên”,
quỳ ngoài nắng, cho vào xà lim biệt giam. Bưởi được tù coi là người hiền lành:
không mấy khi anh trực tiếp thi hành kỷ luật tù như các “quản giáo” khác. Việc
của anh là thỉnh thoảng đăng đàn diễn thuyết ở hội trường trại về chính sách
nhân đạo trị bệnh cứu người của đảng. Việc của anh là nói, việc của tù là nghe,
bằng hai tai cũng được, bằng một tai cũng xong, anh không quan tâm.
Chúng tôi nhanh chóng tìm được sự hợp tác. Bưởi xin ban giám
thị cho tôi một phòng riêng gọi là “phòng văn hóa”, cho phép tôi được treo báo
Nhân Dân và Văn Nghệ tuần tự trong các phòng giam cho tù đọc, tổ chức trường
học trong trại. Thành tích lớn nhất mà chúng tôi đạt được là trại Phong Quang
có sĩ số đỗ phổ thông cao nhất tỉnh Hoàng Liên Sơn, được Cục trao cờ luân lưu
về bổ túc văn hoá. Làm việc lâu với đám tù “vâng dạ ngoài mặt đấm c… sau lưng”
anh dần hiểu ra rằng những người tù chẳng những không hề sợ hãi mà còn coi
thường những biện pháp kỷ luật. Dần dà rồi anh cũng hiểu rằng chỉ với lòng nhân
ái anh mới có thể đi vào lãnh địa tâm hồn những người lỡ sa vào vòng tù tội,
mới có thể cảm hoá họ, giúp đỡ họ làm lại cuộc đời. Gần gụi những người tù, anh
hiểu được có rất nhiều vụ oan ức, đặc biệt trong đám tù số lẻ (tù chính trị).
Những người này, nhất là những người bị bắt liên quan tới tôn giáo hoặc viên
chức chế độ cũ, chẳng hề làm gì nên tội. Họ bị rơi vào tù đơn thuần chỉ vì cái
gọi là cảnh giác cách mạng, hoặc do tư thù. Tất nhiên, anh không nói ra miệng
điều anh nghĩ, nhưng qua câu chuyện trao đổi tôi có thể đoán được.
Tôi kéo Bưởi vào dự tiệc, nhưng anh nói anh không được phép
ngồi ăn cùng phạm nhân. Tôi bảo: anh cứ ngồi bên tôi, tôi bây giờ là người tự
do rồi, có sao đâu. Anh ngần ngừ rồi chặc lưỡi, ngồi vào chiếu. Chắc chắn đó là
lần duy nhất anh phá lệ.
Tiệc vui, mọi người có anh tham dự càng vui hơn, cười nói ầm
ầm.
Bưởi tiễn tôi rất xa, tới tận ranh giới đất của trại với đất
của dân, cách trại cả cây số. Ranh giới là ranh giới quy ước, không cột mốc,
không rào chắn.
Phút chia tay, Bưởi bỗng thay đổi cách xưng hô:
- Anh về nhé – Bưởi nắm chặt tay tôi - Em mừng cho anh.
Nhưng em sẽ nhớ anh lắm đấy. Em không quên anh đã giúp em hiểu biết nhiều khi
anh em mình làm việc với nhau.
Ấy là Bưởi nhắc chuyện tôi giúp Bưởi giải quyết những vụ
xung đột xảy ra trong trại thuộc phần việc anh phụ trách. Không kể những lần
tôi giúp Bưởi giải tỏa những thắc mắc về triết học mác-xít mà anh không hiểu
khi học hàm thụ cao học công an. Tôi thận trọng khi giảng giải, nhưng khéo léo
dẫn dụ Bưởi tới những suy nghĩ nên có.
Tôi ôm lấy Bưởi:
- Khi nào về Hà Nội, chú rảnh thì đến chơi với anh, địa chỉ
chú có rồi. Anh rất vui được đón chú.
Bưởi rồi còn đến tôi nhiều lần. Anh trở thành người thân của
tôi.
Chế độ nào cũng cần có công an. Nhưng phải là công an tốt.
Không phải chỉ mình Bưởi tỏ cảm tình với tôi.
Biết tôi được thả, mấy cán bộ khác trước kia có bề ngoài
lạnh lùng bỗng nhiên tỏ ra lưu luyến, vỗ vai tôi, nắm chặt tay tôi mà lắc.
2
Trả công cho chín năm ở tù của tôi, trại phát cho tôi sáu
chục đồng, có ký nhận hẳn hoi. Cầm mấy tờ giấy bạc trong tay lại nhớ có lần ông
bạn tù lưu niên Tôn Thất Tần hỏi tôi: “Đồng bạc bây giờ trông nó thế nào hở
ông?”. Cái ông “Jean Valjean gọi bằng cụ” này không một ngày bước ra
ngoài nhà tù suốt 30 năm thỉnh thoảng lại bật ra một câu hỏi đến buồn cười.
Ga Lào Cai thời chiến không lớn hơn nhiều lắm so với một cái
đình làng, nhưng là cuộc sống đã lâu không thấy – có hàng, có quán, có người đi
kẻ lại nườm nượp, thấy hoa mắt. Tôi tự thưởng cho mình một cốc xi-rô (sirop),
một thứ nước ngọt pha phẩm đỏ không ra thứ hương gì. Chẳng hiểu nó giá bao
nhiêu, tôi đưa tờ tiền lớn chờ người bán hàng trả lại. Mới ở tù có 9 năm mà tôi
cũng ngớ ngẩn không kém “Jean Valjean gọi bằng cụ”.
Tàu về tới Hà Nội vào buổi tối, tôi không thấy ga Hàng Cỏ,
thấy người ta ra thì tôi ra theo.
Thì ra có một cái ga mới trước đó tôi không hề biết là ga
Trần Quý Cáp. Lần mò từ phố Sinh Từ mà đi tôi tới nhà ông bạn tù vốn là cán bộ
ngoại giao được tha mấy năm trước. Nghe tôi gọi, ông thức dậy mắt nhắm mắt mở
đón tôi. Chúng tôi ôm lấy nhau, vỗ lưng nhau đồm độp. Ông ngẩn ra, không tin ở
mắt mình. Ông biết vụ án của chúng tôi, ông coi sự trở về đột ngột của tôi như
một phép lạ. Tôi trân trân nhìn bàn trà được dọn ra, có ấm đun nước, có ấm sứ
chén sứ hẳn hoi, nhớ đến cái ca sắt tráng men đun bằng giẻ quấn ni-lông với
chén là ống nứa tép gọt.
Hai thằng cựu tù hàn huyên đủ mọi chuyện, cho tới gần sáng.
Tôi tính sẽ ra phố Tràng Thi cắt tóc cạo râu, tắm nước nóng
ở một hiệu quen cái đã rồi mới về nhà. Tôi quyết định không về nhà ngay ban
đêm. Tôi sợ sự xuất hiện của mình sẽ gây choáng váng cho mẹ tôi, vợ tôi và các
con tôi. Tôi hình dung mình sẽ bước vào nhà trong bộ cánh đàng hoàng như thể
vừa trở về từ một chuyến công tác xa. Anh em tù số chẵn, tức tù thường phạm,
tiễn tôi bằng món quà sang trọng – áo sơ mi pô-pơ-lin xanh nhạt đã tẩy sạch hai
chữ CT (cải tạo) bị đóng bằng hắc ín, quần xi-mi-li xanh đậm. Đôi giày da theo
tôi vào tù chín năm trước mà tôi không nỡ vứt đi ở dưới chân, không có tất,
Hành lý của tôi chỉ có một cái túi vải buộc túm. Ra khỏi nhà tù có gì đâu mà
mang.
Tôi chưa kịp thực hiện dự định trong đầu thì đã thấy em gái
Thu Hòa và con gái lớn My Lan đèo nhau lên đón tôi về. Thì ra vợ ông bạn tù sốt
ruột đã phóng xe tới nhà tôi báo tin mừng.
Khỏi phải tả niềm vui của cả nhà tôi như thế nào. Sau chín
năm đằng đẵng nay mới có một ngày cả gia đình họp mặt đông đủ, không thiếu ai.
Cha tôi được thả trước tôi bốn năm còn bị đi đầy biệt xứ ở Nam Định cuối cùng
cũng đã được phép trở về Hà Nội.
Sau bữa cơm đoàn tụ, tôi ngồi vào bàn làm việc ngay buổi
chiều hôm ấy.
Tôi không thể không làm việc khi nhìn thấy vợ tôi gày còm,
xanh mướt, các con tôi cũng lỏng khỏng loẻo khoẻo trong quần áo vá chằng với
đụp. Tôi có việc làm ngay là nhờ anh Dương Tường, bạn tôi, chạy ngay đến Viện
Thông tin khoa học xã hội tìm gặp chị Đỗ Thúy Hà nhận việc cho tôi làm: dịch
tài liệu, làm tổng thuật các sách về chính trị, triết học, ngôn ngữ học…
Tôi vui. Bạn bè còn đấy, không quên mình. Người chưa là bạn
nhưng biết mình, sẵn sàng giúp đỡ mình.
Công việc Đỗ Thúy Hà giao cho, tôi làm được. Nó thích hợp.
Sau chín năm không được đọc sách, tôi say sưa được đằm mình trong biển kiến
thức mới.
3
Khép lại câu chuyện ngày về của tôi trong Chuyện Nhà, tôi
đưa vào đây đoạn con gái út của tôi viết về kỷ niệm với bố:
“Đêm Noel không đi đâu vì sợ kẹt xe, ở nhà ăn bánh và nghe
mẹ kể chuyện.
Mẹ kể: Sáng Noel 1967, mẹ nấu xôi sắn cho bố ăn, món xôi
ngon nhất của mẹ, ngay cả đến bây giờ vẫn là món tủ của mẹ. Bố ăn xong đến nhà
bác bạn, thế rồi đi biền biệt chín năm không về.
Mẹ kể: Cả ngày Noel năm đó, rồi đêm Noel, rồi mấy ngày sau
cho đến Tết Tây, cả nhà lùng sục khắp các bệnh viện, các nhà xác ở Hà Nội, lo
lắng bố bị tai nạn mà người ta không tìm được người nhà. Nhưng cũng không thấy
bố đâu.
Mẹ kể: Đúng tháng đó mẹ bắt đầu có con trong bụng mà không
biết, bố cũng chưa biết là có con. Để rồi mẹ đẻ ra con bé ương bướng trần đời
thế này.
Mẹ kể: Tới tận mấy tháng sau cũng không có tin gì của bố, cả
nhà lờ mờ biết chuyện gì đã xảy ra với bố, nhưng đến cơ quan họ cũng trả lời
chắc là bố bỏ đi không xin phép.
Mẹ kể: Noel năm đó lạnh lắm, bố đi chỉ mặc mỗi một cái áo
bông khoác lên người. Sau này mới biết đến cái áo ấy cũng bị lột mất, cùng cành
hoa hồng bạn bố cho, khi bố trên đường mang về cho mẹ ngày Giáng sinh.
Mẹ kể: Giáng sinh năm đó thật là buồn!
Sinh nhật note
Tặng bố mẹ Vũ Thư Hiên Vũ, Đặng Kim Ân với cả tình yêu!
Bố viết: "Nhớ ngày này con ra đời không có bố ở bên.
Mong con cứng rắn như đã cứng rắn, không trông chờ mà tự tạo lấy niềm
vui".
Mẹ viết: "Mẹ chúc mừng ngày con ra đời, ngày con
mang thêm niềm vui và thêm cả ...gian truân cho mẹ ! Bây giờ thì mỉm cười được
rồi, tất cả đã qua, do tự con cố gắng là chính..."
Nhớ lại những ngày xa xưa ấy, mà chỉ được nghe kể qua câu
chuyện của bà, của mẹ, của các cô chú, nó suýt nữa thì đã không có mặt ở trên
đời nếu bà nội không phát hiện ra mẹ uống thuốc bỏ nó và vứt thuốc đi kịp thời.
Nó không hề giận mẹ, mẹ đã bị áp lực kinh khủng khi chồng bị
tù, hai con còn nhỏ quá với một đứa bị bệnh bẩm sinh, nếu thêm một đứa nữa sẽ
vô vàn khó khăn, chồng chất lên đôi vai gầy của mẹ.
Nhờ thế nó được sinh ra, sau thời gian ngang ngược trong
bụng mẹ, nhất quyết không chui đầu xuống như những bào thai khác, sinh ra với
một hình hài không lấy gì làm đẹp, y như cái tuổi khỉ của nó, với một cái tên
hay nhưng buồn: HOÀI THU. Bà nội nó đặt tên cho nó, nếu theo ý nghĩa thường thì
đơn giản chỉ là nhớ mùa thu năm ấy, tuy nhiên bà còn nói cho nó ý nghĩa sâu sa
về cái tên của nó, về một thời gian không thể nào quên.
Và nó khóc, bắt đầu tỉnh dậy là nó khóc, khóc rỉ rả cho đến
chiều tối, nổi tiếng cho đến bây giờ về khả năng khóc dai trong đại gia đình.
Tuy nhiên biện minh cho việc khóc đấy, khi lớn lên nó được nghe nói rằng, trẻ
con khóc nhiều khi bé là do mẹ buồn trong giai đoạn mang thai, vậy cho nên nó
khóc không phải tại nó xấu tính, tại ông Trời thôi.
Nó vẫn còn một tí trí nhớ về thời gian ấy, nó mở mắt là đã
không thấy mẹ nó rồi, nó bé tí, chẳng mấy khi được có mẹ ở bên, vì mẹ nó sáng
sớm tinh mơ đã phải đạp xe tận Hà Đông, để đi làm nuôi ba chị em nó. Thế là nó
tủi thân, nó khóc, khóc thương cho cái thân nó, khóc chán rồi lại nhớ ra khóc
tiếp, cứ ngày này qua ngày khác.
Lớn lên chút nữa, bắt đầu đi học, nó mới lờ mờ thấy sự khác
biệt của nó và các bạn. Các bạn có bố, vậy bố nó đâu? Mẹ đưa cho nó xem ảnh của
bố, toàn là ảnh xa xưa khi bố còn đang học ở Nga, và nó tự hào vì có một ông bố
rất đẹp trai, nhưng đi công tác xa lắm, mãi chả về. Sau đó, cứ mỗi lần bạn bè
hỏi nói bố nó đâu, nó vênh mặt nói bố tớ đi công tác nước ngoài, xa lắm nên
không về được.
Nó cứ yên tâm sống yên bình với mẹ và gia đình to của nó, cả
nội và ngoại ở bên, mà không biết cả nhà giấu nó, giấu mỗi lần đi thăm ông bội,
thăm bố, chắt chiu từng đồng cho mỗi chuyến thăm tù, và của nả nhà nó cứ mỗi
năm một mất dần đi. Nó chả hề có cảm giác là nhà nó đã khổ cực thế nào, khi vẫn
được sống trong một biệt thự to ở trung tâm của Hà nội, nó vẫn được mẹ cố gắng
cho anh chị em nó một cuộc sống bình thường nhất có thể, một tuổi thơ yên bình,
cho dù vì thế mà mẹ nó càng ngày càng gầy, có được tí thức ăn nào nhường hết
cho con, cho dù nó vẫn biết là nhà nó nghèo, khi mà được cô giáo tuyên dương
trước lớp là nhà nghèo học giỏi, khi mà quần áo của nó vá chằng vá đụp, quần
hoa đi học của nó sau khi vá mông đít thì được quay ngược lên để mặc đằng
trước, kỷ niệm để lại là tấm hình hồi lớp 1 với cái quần thủng đít nhưng ở phía
trước, trong ảnh chụp cùng cả lớp.
Cứ như thế nó sống với mẹ và anh chị em nó, cho đến một
ngày, khi nó 8 tuổi, đi học về, nó thấy nhà có khách, một ông khách tóc bạc
trắng, gầy gò, đen đủi.
Mẹ gọi nó lại và mẹ khóc nói với nó: bố của con đấy.
Ôi, nó không thể tin được, ông bố đẹp đẽ trong ảnh của nó
đâu, chắc là mẹ nó nói dối nó đây mà, bố nó không thể là người đang ở trong nhà
nó thế kia.
Nó lén mở ngăn kéo bàn, nơi tấm ảnh bố nó luôn được mẹ nó
cất giữ, đem ra so sánh với người đàn ông già nua khắc khổ kia. Và nó nhất
quyết không chịu gọi bố nó bằng bố, cho đến mãi bao lâu sau...
Thế là bố bắt đầu bước vào cuộc sống của bốn mẹ con, còn cả
gia đình nó thì bước vào một khoảng thời gian thay đổi hoàn toàn khi có bố, vẫn
đầy gian truân thử thách, nhưng quyết chí đương đầu”.
Thượng đế, hay số phận, không quá tệ với tôi.
Sau những cái chết lướt qua bên cạnh – trong chiến tranh,
trong đời tù, tôi vẫn còn sống được tới hôm nay để có thể kể lại một đoạn đời
với những khúc nhôi mình từng nếm trải cho con cháu và những người mà tôi yêu
mến.
Thế đã là một may mắn hơn người.
Còn may mắn hơn nữa, tôi vẫn còn một gia đình toàn vẹn với
người bạn đời chung thuỷ đi bên tôi bất kể mọi gian khó và những đứa con có
hiếu, lương thiện, lớn lên trong tự lực.
VŨ THƯ HIÊN 14.12.2018
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.