Nhiệt điện Duyên Hải tại Trà Vinh, một trong những nhiệt điện làm suy thoái nguồn nước như bao nhiêu nhiệt điện khác. Ảnh Mai Quốc Ấn |
Chúng ta mất (nguồn) nước, một cách đều đặn
nhưng nhanh chóng và diễn ra mỗi ngày. Những suy nghĩ sai lầm mà sách giáo khoa
đã dạy khiến người Việt càng ngộ nhận và cố chấp hơn trong việc thừa nhận quốc
gia đang mất nước.
Lượng nước bình quân đầu người tại Việt
Nam vào khoảng 9.000 m3/năm, vào loại trung bình trên thế giới. Con số này nhỏ
bé hơn hơn nhiều so với các quốc gia giàu nước như Canada (79.000m3/người),
Peru (60.000m3/người), Chile (60.000m3/người), Colombia (44.000m3/người).
Theo Cục Quản lý Tài nguyên Nước, Việt
Nam có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10km trở
lên, trong đó có 9 hệ thống sông lớn diện tích lưu vực lớn hơn 10.000km2, bao
gồm: Hồng, Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng
Nai và sông Cửu Long. Tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 830-840 tỉ
m3, trong đó hơn 60% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài, chỉ có khoảng
310-320 tỉ m3 được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
Tổng lượng nước đang được khai thác, sử
dụng hàng năm khoảng 81 tỉ m3, xấp xỉ 10% tổng lượng nước hiện có trung bình
hàng năm của cả nước. Nước không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà chỉ
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Và Việt Nam đang đối mặt với ba thách
thức tầm vĩ mô về vấn đề an ninh nguồn nước, gồm:
1- Nhu cầu nước gia tăng trong khi nguồn
nước đang tiếp tục bị suy giảm.
2- Ở một số khu vực, nguồn nước dưới đất
cũng bị khai thác quá mức. Mực nước dưới đất ở một số khu vực bị suy giảm liên
tục và chưa có dấu hiệu hồi phục.
3- Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày
càng tăng cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do
nguồn nước bị ô nhiễm.
Nguồn nước mặt ở hầu hết các khu vực đô
thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã bị ô nhiễm. Nhiều nơi ô nhiễm nghiêm
trọng do nước thải từ các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, các đô thị không
được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn xả ra môi trường, vào nguồn
nước.
Tài nguyên nước Việt Nam chủ yếu phụ
thuộc vào nước ngoài. Việt Nam nằm ở hạ lưu các hệ thống sông lớn như sông Hồng
và sông Mê Công, và khoảng 2/3 lượng nước của nước ta là từ nước ngoài chảy
vào.
Đối với sông Mê Công, 11 công trình thủy
điện trên dòng chính gây nguy cơ nguồn nước chảy về nước ta sẽ ngày càng suy
giảm cùng với giảm lượng bùn cát, ngăn cản di cư của cá, tác động đến khoảng 60
triệu người dân sinh sống ven sông. Đối với hệ thống sông Hồng, Trung Quốc đã
lập kế hoạch xây dựng 52 công trình. Khi các công trình này hoàn thành sẽ thay
đổi chế độ thủy văn và Việt Nam rất khó trong việc chủ động được về nguồn nước
và phòng chống lũ.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước
biển dâng, xâm nhập mặn tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới tài nguyên nước. Mùa khô
ngày càng kéo dài, hạn hán gây thiếu nước xảy ra trên diện rộng liên tục trong
mùa khô các năm từ 2008 đến nay, không chỉ xảy ra cả ở khu vực miền Trung, Tây
Nguyên, miền núi cao phía Bắc mà ngay cả ở vùng ĐBSCL.
Mực nước biển dâng cao dẫn tới ngập lụt
vùng ven biển; gia tăng tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông, đồng bằng ven
biển; gây xói lở, sa bồi làm đảo lộn cân bằng tự nhiên và sinh thái, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến vùng ven bờ.
Đớn đau thay, Việt Nam chưa có một chiến
lược tổng thể về sử dụng nước. Theo giáo sư Vũ Trọng Hồng, hiện nay Việt Nam
chưa xây dựng được chiến lược sử dụng nước. Cho đến nay ngành nông nghiệp sử
dụng khoảng 70% đến 80% tổng nhu cầu nước nhưng chưa có một khảo sát chính thức
nào về nhu cầu thực tế của ngành này.
Rừng đầu nguồn bị suy giảm, diện tích
rừng nguyên sinh không được cải thiện, chất lượng rừng trồng mới kém làm giảm
nguồn sinh thủy là một trong những nguyên nhân chính góp phần làm cho nguồn
nước cạn kiệt, thiếu nước trong mùa khô và gia tăng lũ ống, lũ quét, sạt lở đất
trong mùa mưa trong thời gian gần đây.
Với những dữ liệu nghiên cứu nhiều năm
của các tổ chức như WB, DAB, UN Water,... thì đúng là Việt Nam đang thực sự mất
nước cả về lượng và chất một cách nghiêm trọng. An ninh nguồn nước là một trong
các vấn đề an ninh hàng đầu nhưng tôi chưa thấy một cảnh báo nào từ Bộ Công an
công bố việc mất an ninh nguồn nước.
Ví dụ "bạn vàng" giữ nước ở
đầu nguồn bằng thủy điện thì hoàn toàn có thể "ra giá" chính trị với
các quốc gia hạ nguồn vì họ có quyền điều tiết nước. Đã có rất nhiều cảnh báo
về chiến tranh thế giới thứ ba sẽ là cuộc chiến vì nước, hiểu theo nghĩa đen
hay nghĩa bóng đều được.
Trong khi đó, các dự án khai khoáng và
công nghiệp nặng lại đưa không chỉ nước mà còn đất đai, không khí của đất nước
vào thế nguy hiểm. Môi trường và nhân dân là những đối tượng chịu tác động đầu
tiên và nặng nề nhất.
Bạn có thể nhịn uống nước trong bao lâu?
Hãy nghĩ về điều đó khi tắm quá lâu, sử dụng nước một cách hoang phí hay vứt
một túi rác xuống sông. Và tệ hơn, là việc bạn im lặng trước những dự án làm
mất chất lượng lẫn số lượng nước.
Mất nước thì chỉ có quan tham và gian
thương được lợi! Đó là một thực tế rất Việt Nam...
Chú ý: bài viết có sử dụng số liệu của
tổ chức GreenID, thuộc WareCode VN.
FB MAI QUỐC ẤN 16.12.2017
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.