Trong suốt gần hai chục năm trời, Trường dự bị đại học TP.HCM nổi tiếng là trung tâm luyện thi uy tín, mỗi năm thu hút hàng nghìn học sinh khắp cả miền Nam.
Có những năm, vào thời điểm hoàng kim luyện thi, thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Năm phải ra lệnh hạn chế nhận thí sinh vào trường mặc dù nhận vào là có tiền, bởi không đủ chỗ học, ngoài ra giáo viên dồn giờ dạy cho luyện thi nhiều quá nên chểnh mảng nhiệm vụ chính.
Đồng tiền kiếm từ luyện thi giúp cho đời sống giáo viên khá hơn nhưng hầu như chả mấy ai nghĩ rằng chính họ đã góp phần làm hư hỏng hệ đại học. Tôi có người bạn là giảng viên Trường đại học Tổng hợp, bên ấy cũng căng ra luyện thi, anh kể có ngày dạy luyện thi tới 10 tiết, sáng 4, chiều 4, tối 2, chỉ kịp nhét miếng cơm vào mồm rồi cuống cuồng lên lớp. Lúc nào cũng thèm ngủ.
Sài Gòn những năm đó trong giới giáo viên tồn tại một câu lạc bộ có tên CLB 30 triệu. Ai dạy luyện thi thu nhập 30 triệu đồng/tháng thì đương nhiên được gia nhập câu lạc bộ này. Đồng tiền khiến nhiều thầy cô bị say, say tiền. Một thầy ở trường tôi cũng vậy, thầy Nguyễn Loan dạy toán, dạy nhiều đến mức bị kiệt sức, suy nhược cơ thể, vào bệnh viện được vài hôm thì mất.
Nhưng không phải thầy cô nào cũng khá lên nhờ luyện thi đại học. Chủ yếu là các môn phục vụ khối thi A và B thôi (toán, lý, hóa, sinh) chứ đám thầy cô văn sử địa hầu hết đói dài. Tôi cố trụ mãi nhưng học sinh luyện thi môn văn cứ ngày càng ít dần.
Túng đói quá thì phải… liều. Nhà trường cho phép công đoàn tổ chức giữ xe cho sinh viên. Đám giáo viên đói, chủ yếu là dạy mấy môn văn sử địa được ưu tiên tham gia. Thật trớ trêu, cứ đầu giờ thì tay cục phấn, tay cầm nắm thẻ xe, ghi số, thu tiền, học sinh vừa dắt xe vào vừa “em chào thầy cô ạ”, còn mình thò tay thu tiền lẻ của chúng.
Lúc đầu còn chào lại mà chả giấu hết sự ngượng ngùng, về sau chúng hắn biết ý không chào nữa, lặng lẽ đưa tiền, tiền dư cũng không lấy lại. Chuông reo, rửa tay, vuốt vội bộ quần áo, lại trèo lên bục giảng ê a những điều cao đạo tốt đẹp. Có hôm còn dạy cả tác phẩm Sống mòn của Nam Cao, có hôm dạy bài nghề cao quý của người thầy. Nhìn vào mắt trong veo của sinh viên, biết chúng nghĩ gì. Trớ trêu vô cùng.
Có những thầy cô ngượng, giữ xe được vài bữa thì bỏ. Nhưng phải làm cái gì mà sống chứ. Thế là người nuôi gà, người nuôi cá trê phi, nuôi chim cút, làm sữa chua, bỏ mối nước đá...
Mỗi phòng ở chỉ chưa đầy 20 mét vuông. Thầy Tuấn dạy địa lý dẹp hết cả đồ đạc giường chiếu vào một góc, nuôi gần 5 chục con gà mái đẻ trong phòng. Chưa bước vào nhà đã sặc mùi phân gà, mùi cám, mùi khổ ải. Thầy Vy mua gạch xây hẳn trong nhà cái bể to đùng nuôi cá trê phi. Nước máy không đủ dùng, người tắm cũng phải hạn chế tiết kiệm từng giọt nhưng nước cho các “ông bà trê phi” (thầy Vy bảo thế) lúc nào cũng phải sạch.
Nhà nước khó khăn không nuôi nổi mình thì đành nhờ cậy “các ông bà” gà qué, chim cút, trê phi gánh đỡ qua cơn hoạn nạn chứ biết làm sao. Đời dạy học những năm đó thực khổ trăm bề. Đó là thập niên 1980, cuộc sống cực kỳ u ám.
Chả muốn kéo dài tình trạng vừa lên lớp vừa giữ xe muối mặt với học trò, vừa nuôi gà công nghiệp, nuôi cá, dán phong bì, xỏ mành trúc, xếp que diêm vào hộp diêm, thậm chí tranh thủ dịp nghỉ hè đi buôn… nên đầu năm 1993 tôi quyết định xin nghỉ, đi làm thuê cho nước ngoài. Thầy Nguyễn Văn Vy đùa bảo giá dấn bước thêm tí nữa ra bến Nhà Rồng nhân tiện đi tìm đường cứu nước cứu nhà luôn có phải một công đôi việc không. Chua chát lắm.
Tôi xuống phòng hành chính ký nhận cái quyết định nghỉ việc và qua phòng tài vụ lĩnh cục tiền, được hơn 3 triệu đồng, tính ra sau 16 năm làm việc cho nhà nước được trả gần 9 chỉ vàng. Số tiền ấy chưa kịp dùng vào việc gì thì anh Vũ Văn Kế, một người quen là bộ đội ở Cần Thơ lên hỏi mượn, hẹn 1 tuần trả. Vợ chồng tôi nể quá, gom góp sạch sẽ trong nhà được 4 triệu rưỡi, đưa rồi mà cứ linh cảm lo lo. Sau 2 tuần vẫn chả thấy y đâu, từ bấy không gặp lại con nợ nữa. Năm lần bảy lượt xuống Cần Thơ dò hỏi, hóa ra anh sĩ quan đại úy này sai phạm bị quân đội loại ngũ, đã lừa một lượt tất tật người quen rồi cả vợ con kéo nhau bùng mất. Sau 16 năm dạy học, tôi quay lại thời ban đầu với hai bàn tay trắng.
Như tôi từng kể, cùng trường, có nhiều thầy cô giáo cũ dạy ở Sài Gòn trước năm 1975 rất giỏi. Một hôm, tôi hỏi thầy Chu Đức Khánh, giáo viên toán, sao học khiếp thế, vừa lấy bằng cử nhân toán của Đại học Khoa học Sài Gòn (anh Khánh là học trò cưng của các thầy GS Đặng Đình Áng, Nguyễn Đình Ngọc), vừa lấy bằng tốt nghiệp Viện quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Ảnh cười, bảo tưởng gì, sinh viên miền Nam trước 1975 học 2 - 3 trường cùng lúc là chuyện thường. Các trường đại học đều mở rộng cửa, cứ đậu tú tài 2, đăng ký, đóng tiền là học, muốn học bao nhiêu cũng được. Làm gì có chuyện chen nhau luyện thi như bây giờ.
Quan trọng là đầu ra, chất lượng của đầu ra. Nền đại học của miền Nam trước 1975 không quan tâm đến đầu vào, chỉ cốt đầu ra thôi. Học thế nào thì học, phải thi lấy đủ chứng chỉ, không đủ và tất nhiên là không đạt chất lượng thì cứ việc học cho đến già hoặc vào lính. Thầy Nguyễn Hữu Pha nói thêm, ra trường mà đi dạy, như tôi đây này (thầy Pha quơ tay chỉ vào mình), lương 32.000 đồng, nuôi cả nhà. Chỉ tiết kiệm 2 tháng là mua được chiếc xe Honda Dame mới cứng. Mà giáo viên ít chịu chạy Honda, phải Vespa cơ, mới đúng kiểu. Nghe thầy nói, tôi ngẩn ngơ, nhìn vào đám mấy con gà mái đẻ xơ xác thiếu cám, cả tuần nay chẳng cho quả trứng nào.
Giờ nhớ lại chuyện cũ của thầy Khánh thầy Pha, thấy đúng là nền đại học của chế độ mới càng ngày càng đi xuống. Trường lớp mở thêm nhiều, giáo viên ngày càng đông nhưng chất lượng giáo dục cứ ngày càng tệ hại. Những kỳ thi tuyển sinh mỗi năm thêm nặng nề, tốn kém, trở thành thứ tai ách cho xã hội. Bao nhiêu tiền của, công sức đổ vào thứ thủ tục hành dân vĩ đại ấy nhưng vẫn không làm những người cai quản giáo dục vừa lòng. Họ liên tục bày vẽ ra đủ thứ, miệng kêu đổi mới nhưng lại là những người bảo thủ nhất.
Cứ điểm lại, nền giáo dục của chế độ này, dù so với thời thuộc Pháp đã kém xa về chất lượng nhưng ít ra có thời gian dài trước 1975 cũng ghi điểm được vào thời các bộ trưởng, những vị thượng thư đầu ngành uy tín như Tạ Quang Bửu (Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp), Nguyễn Văn Huyên (Bộ Giáo dục), nhưng rồi cứ trượt dần, càng ngày càng xa so với cũ và với thế giới xung quanh. Người ta đùa nhau: Trường chẳng ra trường, lớp không ra lớp, thầy chả ra thầy, trò chẳng ra trò, đó là nền giáo dục Việt Nam sau 1975.
Giáo dục nước nhà ngày càng bết bát, như ngôi nhà mục nát chờ ngày đổ sụp. Đó là "đỉnh cao chói lọi" của nền giáo dục do những người cộng sản lãnh đạo. Một nước có hàng vạn giáo sư, phó giáo sư, hàng mấy trăm nghìn tiến sĩ nhưng hầu như không có công trình khoa học nào đáng kể góp với thiên hạ. Mỗi năm gần 200.000 thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp không có công ăn việc làm mà lý do cơ bản là trình độ quá kém… Nhưng cứ như những kẻ đui điếc liều, hằng năm người ta vẫn ào ào rầm rộ thi cử, tuyển sinh, thu tiền, coi như không có chuyện gì xảy ra.
Con thuyền giáo dục xứ này, buồm thì rách nát, thuyền trưởng và thủy thủ lọng cọng, u tối, chưa cần ra biển rộng, chỉ quanh quẩn trong cừ kênh mương rạch ao tù hồ cạn cũng đã đủ chao đảo, chấp chới, đắm chìm.
Nhiều lúc ngẫm nghĩ thấy buồn cho nghề, cái nghề mà có thời lòng tôi ca hát “Yêu người bao nhiêu, ta càng yêu nghề bấy nhiêu”.
NGUYỄN THÔNG 20.11.2022
Nguyễn Thông - Chuyện dạy học (1)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.