mercredi 22 octobre 2025

Tiểu Vũ – Mì Quảng và những dòng chữ ở Sài Gòn

 

Sáng nay, ngồi quán cà phê đầu hẻm, tôi mở tờ báo giấy còn thơm mùi mực. Lướt đến trang trong, bất giác tôi dừng lại : Một bút danh quen thuộc. Là con gái anh Chín cuối ngõ, nay đã ký tên phóng viên trên một tờ báo lớn giữa Sài Gòn.

Một dòng chữ nhỏ xíu mà gợi lại biết bao khuya sớm mưu sinh của gia đình anh, và rộng hơn, của bao người xứ Quảng đã chọn nơi này làm chốn lập nghiệp.

Tôi quen anh Chín từ hơn năm năm trước, nhờ những lần ghé ăn mì Quảng ở đầu hẻm gần nhà. Hai vợ chồng anh rời quê Quảng Nam vào Sài Gòn với hai bàn tay trắng, thuê căn trọ chật hẹp, ngày đêm gồng gánh. Những tô mì vàng màu nghệ, nước nhưn sóng sánh, cọng mì trắng tinh thơm mùi gạo quê nhà đã nuôi sống cả gia đình và nâng đỡ một giấc mơ : để con cái được đi xa hơn. Và hôm nay, giấc mơ ấy hiện diện trên trang báo tôi đang cầm.

Câu chuyện của anh Chín chỉ là một lát cắt trong hành trình dài của dòng di dân Quảng Nam. Từ thế kỷ 17, những lưu dân đầu tiên đã theo chân chúa Nguyễn mở đất vào Nam. Sang thế kỷ 20, hết sau 1954 rồi sau 1975, mỗi biến động quê nhà như bão lũ, mất mùa, chiến tranh lại thêm nhiều chuyến xe khách chở người Quảng vào Sài Gòn.

Bến xe miền Trung, nơi khởi đầu của bao phận người. Những chuyến xe đêm từ Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Hội An, Đà Nẵng cập bến Bà Quẹo, Hóc Môn, Tân Định, Tân Bình..., đưa theo những gương mặt rám nắng ôm quang gánh, chiếc rương gỗ nhỏ, vài ký gạo quê. Họ thuê trọ trong những căn phòng hẹp tối, vách gỗ, mái tôn dột nước. Ban sáng, người đàn ông đẩy xe ra ngã tư, người phụ nữ bày rổ rau, con trẻ theo cha mẹ ra chợ.

Ở chợ Bà Hoa, từ tinh mơ đã rộn rã tiếng rao, mùi rau Trà Quế ngai ngái, mắm cái nồng nàn, bánh tráng trắng xếp chồng, đậu phụng rang thơm lựng. Ở Bảy Hiền, tiếng khung cửi gõ cộc cộc suốt ngày đêm, dệt nên những tấm vải bền chắc, nuôi sống hàng ngàn gia đình và góp phần lớn vào kinh tế thành phố. Tất cả hòa vào nhịp thở đô thị này, vừa lam lũ vừa bền bỉ, vừa mưu sinh vừa giữ hồn quê.

 

Nhưng di dân Quảng Nam không chỉ đem đến gánh mì, khung cửi hay ngôi chợ. Họ còn mang theo chữ nghĩa và những ngòi bút.

Phan Khôi từ Điện Bàn Quảng Nam vào Sài Gòn, sống và làm báo nhiều năm, để lại dấu ấn lớn trong đời sống báo chí và văn học Nam Kỳ thập niên 1920–1930.

Phan Khôi khẳng định tên tuổi như một ngòi bút sắc bén và độc lập. Ông cộng tác với nhiều tờ báo quan trọng như Đông Pháp thời báo, Phụ nữ Tân văn, Thần Chung, Trung Lập, đồng thời mở ra những cuộc bút chiến sôi nổi về nữ quyền, phong tục, tự do cá nhân và cải cách xã hội. Đặc biệt, loạt bài trên Phụ nữ Tân văn đã tạo nên diễn đàn công khai hiếm hoi cho vấn đề bình đẳng giới, kéo dài nhiều tháng và thu hút đông đảo trí thức tham gia.

Với văn phong thẳng thắn, luận chiến giàu sức thuyết phục, Phan Khôi đã làm báo chí Sài Gòn thêm phần sinh khí, góp phần định hình nền báo chí quốc ngữ trưởng thành, đồng thời lan tỏa ảnh hưởng vượt ra ngoài nghề báo để tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa và tư tưởng đương thời.

Bùi Thế Mỹ ở Duy Xuyên nổi danh với bút lực chính luận sắc bén, thẳng thắn bênh vực dân nghèo, đả kích bất công và nhiều lần trả giá cho sự dấn thân. Chính họ đã đặt những viên gạch nền cho báo chí quốc ngữ ở Nam Kỳ, để lại phong cách riêng : thẳng thắn, phản biện, không ngại va chạm.

Đến giai đoạn 1954 – 1975, Huỳnh Bá Thành với bút danh “Ớt” nổi bật với loạt tranh biếm họa thời sự trên Tin Sáng, Điện Tín, giễu nhại quyền lực, biến tiếng cười thành vũ khí công luận.

Sau 1975, lớp nhà báo Quảng Nam tiếp tục giữ vị trí trụ cột : Nguyễn Công Khế làm Tổng Biên tập Thanh Niên hơn hai thập niên, đưa tờ báo thành một diễn đàn lớn ; Võ Như Lanh lãnh đạo Tuổi Trẻ rồi sáng lập Thời báo Kinh tế Sài Gòn, định hình phong cách báo chí hiện đại, coi trọng tính chuyên nghiệp và đào tạo thế hệ kế cận ; Vũ Đức Sao Biển (Duy Xuyên) vừa là nhạc sĩ vừa là ký giả phiếm luận, đem chất trữ tình và hóm hỉnh xứ Quảng vào nhịp sống đô thị.

Người Quảng làm báo ở Sài Gòn thường nổi bật với sự bộc trực, thẳng thắn, cái “hay cãi” của quê nhà nhưng cũng giàu tình nghĩa. Họ viết để phản biện, để đối thoại, để thức tỉnh. Họ cũng viết để sẻ chia, để nối sợi dây ký ức miền Trung với cộng đồng xa quê.

Thế hệ trước 1975 có thể kể đến Vũ Đức Sao Biển, Huỳnh Sơn Phước, Vũ Hạnh, Trần Ngọc Châu, Cao Vũ Huy Miên… Họ là lớp ký giả vừa mang tinh thần phản biện mạnh mẽ, vừa giữ được chất nhân văn và khí chất xứ Quảng, tạo dấu ấn rõ rệt trong diện mạo báo chí đô thị miền Nam.

Sau 1975, nhiều cây bút Quảng Nam tiếp tục khẳng định vị trí trong đời sống báo chí : Nguyễn Nhật Ánh, Tần Hoài Dạ Vũ, Vu Gia, Nguyễn Đình Xê, Đặng Việt Hoa, Bùi Nguyễn Trường Kiên, Lê Thị Nam Bình, Anh Khuê, Dương Quang, Lê Minh Quốc, Lý Đợi, Lê Minh Hạ, Lê Công Sơn, Trâm Anh, Ngô Công Quang… Mỗi người một phong cách, một thế mạnh, nhưng điểm chung là kiên trì đi theo con đường cha ông, lấy chữ nghĩa làm khí giới, lấy nghề báo làm cách góp phần cho sự công bằng và nhân văn xã hội.

Ngày nay, giữa Sài Gòn sôi động, những ngòi bút trẻ xứ Quảng vẫn tiếp bước. Họ có mặt ở nhiều tòa soạn, từ báo in đến báo điện tử, từ trang tin thời sự đến tạp chí văn hóa, phát thanh truyền hình. Có người viết phóng sự điều tra gai góc, có người miệt mài với mảng văn hóa nghệ thuật, có người chọn làm biên tập viên lặng lẽ phía sau. Điểm chung vẫn là sự bộc trực, thẳng thắn và cái tình của người miền Trung. Họ viết như nói, không cầu kỳ bóng bẩy nhưng thấm đẫm trách nhiệm với bạn đọc và xã hội.

Tôi gấp tờ báo lại. Trong đầu vẫn phảng phất mùi mực in và mùi nước nhưn sôi sục trong quán mì Quảng của anh Chín. Một bút danh nhỏ trên trang báo, một tô mì thơm mùi dầu phụng trong hẻm tối, tưởng chừng cách xa nhau nhưng thật ra cùng chung một mạch nguồn. Đó là mạch nguồn xứ Quảng : từ phận người lam lũ đến thế hệ cầm bút, bền bỉ và kiêu hãnh, góp phần làm nên diện mạo báo chí Sài Gòn hôm nay.

TIỂU VŨ 22.10.2025

 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.