mardi 28 octobre 2025

Nguyễn Ngọc Chính - Nghề báo ngày xưa

 

Khi đọc một cuốn sách, trước hết chúng ta để ý đến tác giả rồi sau đó mới đi vào nội dung. Đọc tin trên một tờ báo ngày xưa chỉ cần chú ý đến nội dung mà không nhất thiết phải biết ai viết bản tin đó.  

Rất thú vị khi đọc một đoạn nhà văn Sơn Nam so sánh giữa nghề văn và nghề báo trong quyển “Dạo chơi”. Ông cho rằng, nghề báo được xem là nghề thực tiễn, đem lại lợi tức thông qua nhuận bút và danh vọng. Ông cũng cho rằng: “Người chuyên làm báo, khi bỏ nghề hoặc nhắm mắt chỉ còn cái bút hiệu, không có tác phẩm”.

Làm báo khoảng 80 năm trước đây, người Sài Gòn quen thuộc với bóng dáng anh “ký giả”, một thuật ngữ xưa chĩ người làm báo. Mỗi buổi sáng, anh ngồi quán cà phê lề đường, trò chuyện và hỏi han tin tức, nghe lời khen chê, bình luận của anh xe kéo, anh phu khuân vác, chị bán cháo lòng, cậu bé đánh giày…

Anh ký giả được bạn đọc thương bởi thường viết về đời sống bà con lao động, như “đòi hỏi điện, nước” cho xóm nhà lá”… Cũng vì thế mà ta có cả những loại tin “xe cán chó” bên cạnh các vấn đề mưu sinh của người dân. 

Từ năm 1908, nhà báo và cũng là nhà văn nổi tiếng Trần Chánh Chiếu, trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn, đã kể chuyện thân phận của nông dân, tá điền bị áp bức, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Hay nhờ báo chí, cuộc đấu tranh giành quyền được sống của nhân dân thuộc địa.

Báo chí cũng đưa ra những dẫn chứng như các cuộc khởi nghĩa ở Nọc Nạn (Bạc Liêu), Ba Thê (An Giang)… chống hành động cướp bóc, vơ vét của bọn địa chủ, hà hiếp người đi khai hoang đã được báo chí bênh vực.

Ở Cần Thơ, tờ báo ra đời sớm nhất là “An Hà Báo” của tư nhân, xuất bản 1 tuần 1 lần. Hơn 16 năm tồn tại (từ năm 1917 đến 1933), “An Hà Báo” đã phản ánh hoạt động kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa, văn học… tại Cần Thơ và cả vùng Đồmg bằng sông Cửu Long.

Đọc “An Hà Báo”, độc giả mường tượng được bức tranh khá toàn diện về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa trong giai đoạn lịch sử này. Điển hình như báo có nhiều bài tường thuật các cuộc cúng đình, lễ hội Tống ôn, đội bóng đá nữ ở Cần Thơ...

Trong nhiều năm, mỗi dịp Tết, báo đều có bài tường thuật “Lễ Tết tại Cần Thơ”.

Khi người dân gặp những gì oan khiên, bất công cũng tìm đến tòa soạn báo nhờ “giải nguy”. Với nguyên tắc “gắn bó với giới bình dân thì báo mới bán chạy” và cũng để có nhiều độc giả, nhiều tờ báo Sài Gòn đã cải tiến nhanh, theo mô hình báo chí hiện đại của Pháp rồi từ từ mang sắc thái Sài Gòn vào trang báo, tạo thành bản sắc riêng.

Ngày nay, những tờ báo xưa đã trở thành tài liệu nghiên cứu quan trọng của các nhà sưu khảo khi tìm về hiểu về vùng đất và con người ở một giai đoạn lịch sử. Đó là những dữ liệu, con số có tính xác thực cao.

Trên tờ báo Đổi Mới (xuất bản tháng Giêng năm 1972), có bài “Cần Thơ đô thị sầm uất của miền Tây”, khái quát nhiều khía cạnh: từ tên gọi Cần Thơ, các nhân vật lịch sử: Thống chế Nguyễn Văn Tồn, Lãnh binh Võ Duy Tập, Cai tổng Lê Quang Chiểu… cùng những tiềm năng, vị thế của một đô thị miền Tây.

Đoạn quảng cáo của một tiệm chụp hình ở Mỹ Tho cách đây gần 80 năm cho thấy doanh nghiệp đã có ý thức “tiếp thị”, quảng cáo trên báo chí thời đó:

“Trót mấy mươi năm chuyên luyện nghề của chúng tôi, ngày nay chúng tôi quyết đem nghề của mình mà dưng cho chị em, cô bác. Vậy từ đi xin quý vị vui lòng quá bước đến tiệm của chúng tôi một lần, thì mới rõ lời của tôi bố cáo đây là chánh thức vậy. Mỗi món chúng tôi đều hạ giá rất rẻ, không phải vì hạ giá mà chúng tôi làm sơ sài. Xin quý vị đến một lần sẽ biết”.

Những người hoài cổ có thể thấy xót xa cho một thứ tiếng Việt trong quá khứ, giờ sắp thành cổ ngữ hoặc tử ngữ. Nhưng suy cho cùng, ngôn ngữ là thế, luôn vận động và thay đổi cùng cuộc sống, cái mới sinh ra thì cái cũ phải mất đi.

Ngoài văn phong, ngôn từ, báo chí Sài Gòn cũ còn rất nhiều điểm khác thời nay. Chẳng hạn về cách tổ chức. Ngoài các phóng viên chính thức, mỗi tờ nhật báo còn có một lực lượng "thông tín viên".

Những người này cũng là ký giả, nhưng chỉ chuyên săn tin vặt. Hàng ngày, họ đạp xe, hay sang hơn thì chạy vélo-solex hay mobylette, đi khắp thành phố, lượm lặt những tin nho nhỏ dạng "xe cán chó, chó cắn xe"... để bán cho các báo.

Thật ra thời đó chiến tranh nguy hiểm, “ký giả salon” cũng nhiều. Những tòa soạn mà có được phóng viên trẻ nhiệt tình, chịu khó ra vùng chiến sự để gửi tin bài về thì chủ báo “cưng” lắm.

Làm cho báo giàu thì kiếm được nhiều tiền, làm báo nghèo thì ít tiền. Nhiều phóng viên của các tờ báo giàu ăn chơi “như đế vương”, nhảy đầm, bài bạc, có người còn hút sách nữa. Nhưng thật ra thường không có nhà báo giàu mà chỉ có ông chủ bút là giàu thôi.

Báo chí Sài Gòn xưa có nhiều loại. Có những tờ công khai chống chính quyền, như Tin Sáng (chủ nhiệm là ông Ngô Công Đức, đã mất năm 2007), Điện Tín (cố nhà báo Chánh Trinh tức Lý Quý Chung là cây bút bình luận chính trị sắc sảo). Họ châm biếm chính quyền kém cỏi, gọi "Tổng thống Thiệu" là "Tổng thống Thẹo", "Sáu Thẹo", hay Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thời Johnson là "Ông già tủ lạnh"!

Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, mục "Tin vịt nghe qua rồi bỏ" trên báo Tin Sáng đã có những bài viết trào phúng phê phán chế độ Sài Gòn, rất được độc giả ưa thích. Điển hình cho báo chống cộng là “Sống” của Chu Tử, báo có lượng phát hành cao không nhất thiết là báo hay.

Cũng có nhiều tờ trung lập, gọi là thuộc "thành phần thứ ba", kêu gọi hòa bình, hòa hợp hòa giải chung chung. Dĩ nhiên là không thiếu những tờ "lá cải", chuyên đăng tin “giựt gân” như đâm chém, tình, tiền, tù tội… được mệnh danh là báo "4T".

Và không thể không kể tới một thứ "đặc sản" của báo chí hồi đó được nhiều độc giả ưa thích đến độ “ghiền”, không đọc cảm thấy thiếu một cái gì đó. Trên trang trong của các nhật báo thường có “feuilleton”, tức truyện dài nhiều kỳ, đăng trên báo và sau có thể in thành sách.

“Feuilleton” có thể là truyện tình cảm xã hội, ly kỳ, éo le, đẫm nước mắt, đặc biệt hấp dẫn đối với phụ nữ… hoặc là truyện chưởng, kiếm hiệp kỳ tình hợp với nam tính của Kim Dung. Nhà văn Việt Nam thời đó cũng có những người viết “feuilleton” chuyên nghiệp, như Dương Hà, Nghiêm Lệ Quân, Tùng Long...

Cũng thuộc dạng “feuilleton” nhưng tác giả như Kim Dung lại viết về chuyện kiếm hiệp từ nhật báo bên  Hồng Kông, đến Sài Gòn sẽ được các dịch giả cấp tốc chuyển ngữ sang tiếng Việt để độc giả theo dõi hàng ngày.

Vì một lý do nào đó bị trục trặc không kịp đến Sài Gòn, tờ báo vội vàng đăng cáo lỗi cùng độc giả: “Xin cáo lỗi vì chuyến bay bị trễ, không kịp lên khuôn…”. Đó là thời kỳ những truyện kiếm hiệp như “Cô Gái Đồ Long”, “Anh Hùng Xạ Điêu”, “Thiên Long Bát Bộ”, “Lục Mạch Thần Kiếm”…

Tờ nào đăng được sớm thì bán chạy. Ví dụ tờ “Chính Luận” được nhiều người đọc không phải vì có tin tức thời sự về chính trị, xã hội… mà vì mỗi ngày họ đều đăng truyện chưởng của Kim Dung sớm nhất.

Những cây bút sắc sảo của báo chí năm xưa giờ nhiều người đã mất: Chu Tử, Lê Ngộ Châu, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung (Chánh Trinh)… Một số chọn con đường ra nước ngoài, làm báo bên đó, một số người vẫn tiếp tục "cuộc chiến chống cộng".

Giờ thì không còn cái cảnh người ta quây quần quanh một sạp báo còn nóng hổi trong ngày như xưa. Những tờ báo treo xung quanh ngay trang bìa hay trang nhất, không tin nào giống tin nào, không hình nào giống hình nào.

Năm 1957, theo tờ “Chỉ Đạo”, giới công quyền đã có khoảng 200 loại tập san báo chí thông tin khác nhau. Dân sự thì tới con số không kiểm soát nổi. Hình ảnh nhiều người đã thấy là thường vào buổi trưa, trong vùng chợ Bến Thành nhiều xe xích lô đậu quanh chờ khách, nhiều ông già hay mấy người đứng tuổi đang đọc nhật trình.

Dân lao động Miền Nam đọc báo mỗi ngày là sự việc đã được ghi chép, nói đến từ gần một thế kỷ qua. Người ta đọc báo giữa ngày, giữa trưa trong khoảng thời gian tạm nghỉ.

Báo chí miền Nam trên đường phố như thế có thể hiểu là vừa đúng trên cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Trong tổ chức tòa soạn của một tờ báo, nhất là báo hằng ngày rồi đến báo tuần, có những phần vụ nổi bật, một là chủ bút và biên tập viên, hai là thư ký tòa soạn và phóng viên. Bốn phần vụ này tùy theo từng tờ báo và từng loại báo mà thành hình.

Nếu là báo lớn ra nhiều trang, tờ báo có nhiều biên tập viên và nhiều phóng viên, người ta có thể có tổng thư ký tòa soạn và vài thư ký tòa soạn (mỗi thư ký tòa soạn phụ trách bốn trang chẳng hạn).

Qua cái nhìn của giới truyền thông quốc tế tại Sài Gòn trước năm 1975, những nơi như khách sạn Caravelle, quán cà phê Grival… có thể xem là “đệ nhất thiên đường”. Bởi tại những nơi này, cánh phóng viên không chỉ được thưởng thức cảnh trí đẹp thuộc hàng nhất nhì Sài Gòn, mà còn có cơ hội “tám chuyện”, đủ thứ hỉ nộ ái ố của chuyện làm báo thời chiến.

Ngày nay, số độc giả “báo in” ngày càng teo tóp để nhường chỗ cho “báo mạng” đang rầm rộ bành trướng. Thôi, đó cũng là quy luật bất biến của cuộc sống và cũng là trào lưu của tiến bộ khoa học.

Bài viết này chỉ mong người đọc tìm lại chút nào “hương xưa” để nhớ lại những kỷ niệm khó quên với “báo in”.

NGUYỄN NGỌC CHÍNH 28.10.2025

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.