Bác sĩ Yersin qua đời ngày 1-3-1943 tại Việt Nam, lúc 79 tuổi. Ngôi mộ của ông nằm ở Suối Dầu, Nha Trang, chung quanh là những hàng cây hoa sứ trắng. Dù là một nơi khuất bóng người, nhưng nơi đây bao giờ cũng có hương khói và hoa thơm, được dân trong vùng chia nhau quét dọn sạch sẽ.
Ông Năm – hay là Alexandre Émile Jean Yersin – là một trường hợp đặc biệt của lịch sử Việt Nam, vì được người dân nhắc, nhớ và kính trọng như một hiền nhân của nước Việt.
Lần ghé thăm và tìm hiểu về ông, dù đã nghe kể nhiều như một huyền thoại, nhưng đến khi chứng kiến, vẫn không khỏi bồi hồi. Sống, tận hiến, yêu thương và lặng lẽ ra đi trong tình nhân loại: Liệu có một nhân vật quyền bính nào hôm nay đủ tư cách để sánh ngang hàng với ông?
Paris lúc ấy là trung tâm văn minh của nhân loại, từ kịch nghệ cho đến hội họa, âm nhạc và cả tiến bộ y khoa. Và Đông Dương lúc ấy, được phương Tây coi là nơi man khai, con người mọi rợ và rừng rú. Quyết định của Yersin gây nhiều xung đột với bạn bè và đồng nghiệp, vì vị trí của chàng trai Yersin lúc ấy ở Paris, cũng đầy hào quang không khác gì bác sĩ Louis Pasteur hay Robert Kock, thế nhưng ra đi, là điều không thể ngăn được Yersin.
Vốn là một người lớn lên ở cao nguyên và núi non Aubonne, Vaud (Thụy Sĩ), đến Đức rồi qua Pháp, bác sĩ Yersin chỉ thấy biển lần đầu tiên vào năm ông 26 tuổi trên một chiếc tàu buồm. Ông say mê biển đến mức viết thư kể lại cho bạn, như một nhà văn. Có lẽ chính vì vậy đến Nha Trang, vùng đất có bờ biển đẹp chạy dài theo những đường ven núi khiến ông không thể rời.
Chọn cuộc sống ở đây để nghiên cứu và thám hiểm, bác sĩ Yersin đã nhiều lần quay lại Pháp để mang những dụng cụ thí nghiệm và sách vở. Máy bay đáp ở Sài Gòn, lúc đó để đến được Nha Trang thì ông có lúc phải mất đến tám ngày đường bộ, còn đi tàu thủy từ Pháp thì mất một tháng.
Nhiều năm sau, khi quay lại Pháp để dự khánh thành Viện Pasteur, bác sĩ Yersin bị mẹ chất vấn liên tục về việc ở lì tại Việt Nam, ông chỉ trả lời đơn giản rằng “Vì nơi đó, con được thấy biển”.
Không phải khởi đầu, một tên da trắng và bị nhìn như một “tay sai thực dân” có thể gây được cảm tình với dân Việt Nam, và cả dân thiểu số. Những ngày đầu khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người dân, ông bị lấy cắp tiền hoặc đồ vật. Trong thư gửi mẹ mình, Yersin viết rằng “Bệnh nhân An Nam từ khắp nơi đổ về đây, những lúc con không đi chơi đâu đó. Nói cho đúng, họ lợi dụng hiểu biết khoa học của con, nhất là những lúc để trả tiền cho con, họ lại thân ái đánh cắp ví của con. Nhưng biết làm sao bây giờ, trong óc họ, ăn cắp tiền của một người Pháp là một hành động tốt. Vả lại, người Pháp đến xứ Đông Dương này để làm gì đây, nếu không phải là ăn cắp của người An Nam?”.
Không lâu sau đó, người dân Việt coi ông như một vị thánh. Sự nhân ái, vị tha và thấu hiểu của ông khiến “ông Năm” trở thành một người Việt đặc biệt, luôn được kính trọng.
Sau tháng 4-1975, các tên đường Mỹ-Pháp… bị coi là tàn dư của văn hóa đồi trụy nên bị đổi đi. Chẳng hạn như đường Alexandre de Rhodes bị đổi thành Thái Văn Lung, đường Pasteur bị đổi thành Nguyễn Thị Minh Khai (đổi từ ngày 14-8-1975, do Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Đến lễ 2-9-1991, UBND TP xác nhận đây là tên ân nhân của nhân loại, nên lấy lại Pasteur như cũ).
Điều cuối cùng về bác sĩ Alexandre Émile Jean Yersin, là di chúc để lại, ông muốn được chôn nằm sấp xuống đất để được áp mặt vào nơi chốn ông đã chọn nơi này làm quê hương. Dẫu không là một người Việt nhưng ông sống và yêu nơi chốn này hơn cả mọi kẻ khoa trương lý tưởng “Giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác”, di chúc ghi.
Và đáng kính trọng, ông ra đi như một người Việt Nam vĩ đại, không cần lăng to, đất rộng làm nhà mồ, không cần ai phải gọi tên hay tung hô mình như lãnh tụ. Thậm chí, nơi yên nghỉ với tính cách giản dị của ông, có lẽ cũng không mong được trở thành di tích văn hóa.
TUẤNKHANH 28.02.2021
-------------
Tham khảo tư liệu từ:
Yersin: Peste et Choléra của Patrick Deville, bản dịch của Đặng Thế Linh, NXB Trẻ
Docteur Nam của Eslisabeth du Closel, bản dịch Việt ngữ của Lê Trọng Sâm, NXB Trẻ.
Địa chí Văn hóa TP.HCM (1698 – 2018), NXB Tổng hợp TPHCM.
Albert Calmette (1863-1933): Người đã phát triển thành công vaccine phòng bệnh chó dại, đậu mùa và bệnh lao. Ông cũng là một trong những người đã mở ra Viện Pasteur tại Sài Gòn – nơi có đóng góp không nhỏ vào kho tàng nghiên cứu y học của thế giới.N đã nghiên cứu về độc tố bệnh bạch hầu, và cũng là một trong những người đầu tiên sáng lập ra viện Pasteur – Sài Gòn.
Louis Pasteur (1822-1895): Người khai sáng ngành nghiên cứu vi sinh vật học, là người đã sáng chế ra thuốc kháng sinh đầu tiên trên thế giới. Viện Pasteur cũng được thành lập dựa trên ý tưởng của ông.
Alexandre de Rhodes (1591-1660): Nhà truyền giáo, một nhà ngôn ngữ học người Pháp. Người ta lấy tên ông để đặt cho con đường nhằm vinh danh đóng góp quan trọng của ông trong việc hình thành chữ Quốc ngữ Việt Nam.
Robert Koch (1843-1920): Nhà khoa học người Đức, tìm ra vi khuẩn than, trực khuẩn lao và vi khuẩn dịch tả.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.