***
Dự thảo Luật đơn
vị hành chính – kinh tế đặc biệt (Luật đặc khu) đang gây nhiều tranh cãi nhưng
chắc sẽ được thông qua vì trên thực tế “ván
đã đóng thuyền”. Tuy nhiên, nếu được triển khai thì khả năng thành công của
mô hình đặc khu theo đạo luật này sẽ rất thấp vì:
Thứ nhất, chính
sách nằm sau đạo luật này thiếu cơ sở thực tiễn. Một cách chính thống, Luật đặc
khu nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối về “xây dựng một số đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế vượt
trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy
thuộc hệ thống chính trị”.
Nếu mục tiêu là “tạo cực tăng trưởng” thì với quy mô và
tiềm năng của Phú Quốc, Bắc Vân Phong, và Vân Đồn thì cả ba địa phương này đều
không thể tạo ra đột biến lớn đến mức trở thành một cực tăng trưởng của đất
nước trong 10-20 năm tới, trừ phi phần còn lại của đất nước dậm chân tại chỗ.
Mà nếu phần còn lại của quốc gia quả thực không phát triển, thì cũng chẳng có
cơ sở để các đặc khu thành công.
Nếu mục tiêu là
tạo “thể chế vượt trội” để “thử nghiệm
đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy”. Thì bài học từ mô hình khu kinh tế mở
(bắt đầu với Chu Lai) từ 2003 cho thấy nếu không có sự thay đổi đồng bộ ở phạm
vi quốc gia, thì những sáng kiến của địa phương chắc chắn sẽ sẽ bị bóp nghẹt
bởi một mạng lưới chằng chịt các thể chế và quy định hiện hành, vốn hoàn toàn
không tương thích với “thể chế vượt
trội”.
Hơn nữa, khả năng
nhân rộng các “thử nghiệm đổi mới”
này sẽ rất thấp. Đơn giản là vì khoảng cách giữa những ưu đãi và thể chế của ba
đặc khu vô cùng “vượt trội” với phần
còn lại của đất nước. Nếu như sau 15 năm, ngay cả những ưu đãi và thử nghiệm
thể chế khiêm tốn hơn nhiều của các khu kinh tế mở vẫn chưa thành hình và tới
được phần còn lại của đất nước, thì hy vọng về một sự lan tỏa thể chế và chính
sách từ ba đặc khu sẽ chỉ là những ước vọng xa vời.
Thứ hai, trong
khi mục tiêu của cả ba đặc khu đều hướng tới thu hút các ngành công nghệ cao
4.0, thì tư duy chính sách chủ yếu vẫn chỉ là 1.0. Tức là cố thu hút thêm FDI
bằng lợi thế so sánh truyền thống cùng những ưu đãi kịch trần và vượt khung,
thậm chí không ngần ngại mở casino cho cả người Việt Nam vào chơi.
Những ưu đãi quá
mức này một mặt tạo nên một “cuộc đua
xuống đáy” ngay giữa ba đặc khu của Việt Nam. Mặt khác không đảm bảo sự
thành công cho các đặc khu vì theo kinh nghiệm thế giới, ưu đãi không đi cùng
với chất lượng thể chế, quản trị, điều hành và cơ sở hạ tầng thì cũng trở nên
vô nghĩa.
Thứ ba, với thiết
kế như hiện nay, không có gì đảm bảo các đặc khu sẽ có tính bền vững về kinh tế
và giúp tạo ra các ngoại tác tích cực, như nâng cấp và chuyển đổi cơ cấu, cũng
như thúc đẩy cải cách kinh tế trên diện rộng.
Nền kinh tế Việt
Nam đã và sẽ tiếp tục phụ thuộc sâu hơn vào khu vực FDI. Trong khi đó, đang tồn
tại một sự đứt gẫy, thậm chí là một vực sâu khoảng cách giữa khu vực FDI với
khu vực kinh tế trong nước. Với thiết kế hiện nay, ba đặc khu này tương đối
biệt lập với phần còn lại của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, khi chúng đi vào
hoạt động thì sự phụ thuộc vào FDI cũng như khoảng cách giữa FDI và kinh tế
trong nước sẽ còn trở nên sâu sắc hơn.
Hệ quả là ngoại
lực không những không giúp kích thích mà sẽ còn tiếp tục lấn át nội lực. Điều
này đi ngược với kinh nghiệm quốc tế, trong đó chìa khóa thành công nằm ở hệ
thống thể chế và chính sách giúp phát huy vai trò của các doanh nghiệp địa
phương năng động, đóng vai trò làm cầu nối và chất xúc tác cho đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, đưa ra
một khuôn khổ pháp lý cho đặc khu mới chỉ là một bước khởi đầu, việc triển khai
mô hình đặc khu trên thực tế chắc chắn sẽ còn lắm gian truân. Bên cạnh nguy cơ
bị trói chân trói tay bởi một ma trận thể chế và quy định hiện hành, nguy cơ
nhìn thấy trước là chính quyền đặc khu bị thiếu nguồn lực, năng lực, và thẩm
quyền (cả thẩm quyền theo luật định và thẩm quyền trên thực tế) cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ của mình.
Về những phương
diện này, ngay cả hai thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Hồ Chí Minh loay
hoay mãi mà vẫn chưa thoát ra được thì liệu ba đặc khu có khắc phục được hay
không hoàn toàn là một câu hỏi ngỏ.
Thứ năm, với vị
trí xung yếu và nhạy cảm của mình, liệu Phú Quốc, Bắc Vân Phong, và Vân Đồn có
phải là những địa điểm thích hợp để thử nghiệm chính sách trong bối cảnh địa
kinh tế và địa chính trị hiện nay hay không?
Lấy đơn cử Vân
Đồn chẳng hạn. Một trong những mục tiêu quan trọng của Đặc khu Vân Đồn là thu
hút các ngành công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao. Thử hỏi ở sát
biên giới với Trung Quốc thì những công ty công nghệ cao của các cường quốc
khoa học và công nghệ ở Châu Á (như Nhật Bản và Hàn Quốc) và phương Tây có sẵn
sàng và yên tâm đầu tư hay không?
***
Sự ra đời của đặc
khu kinh tế không thể tách rời bối cảnh kinh tế - chính trị của quốc gia. Từ
góc độ lịch sử, mô hình đặc khu chỉ thích hợp trong điều kiện cả nước đang đóng
kín bưng và cần một “đột phá khẩu” ra
thị trường thế giới. Hơn nữa, sự thành công của các đặc khu phụ thuộc vào mức
độ tích hợp của chúng trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế, cũng như
mức độ kết nối của chúng với phần còn lại của nền quản trị và kinh tế quốc gia.
Với độ mở thuộc
nhóm cao nhất thế giới như hiện nay, mô hình “đột phá khẩu” này không thực sự phù hợp cho Việt Nam. Chìa khóa
của cải cách thể chế thành công, vì vậy không phụ thuộc vào ba đặc khu, mà nằm
ở nỗ lực cải cách toàn diện nền tảng thể chế và chính sác quốc gia.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.