Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc tập trận tại Biển Đông, tháng 12/2016. |
Nhà nghiên cứu Ross Babbage trong một bài phân tích trên trang War On The Rocks
(trang mạng chuyên phân tích vấn đề an ninh, trụ sở tại Washington)
nhận định, bây giờ là thời điểm để nhanh chóng hành động một cách khôn
ngoan trước những cuồng vọng của Bắc Kinh tại Biển Đông. Bài viết này là
một phần trong báo cáo của tác giả cho Trung tâm Chiến lược và Đánh giá
Ngân sách, mang tựa đề « Đối phó với những hành động phiêu lưu của Bắc Kinh trên Biển Đông : Các chọn lựa chiến lược cho chính quyền Trump ».
(Xem tiếp phần 2) Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh
Theo
tác giả, chính sách của Hoa Kỳ và các đồng minh thân cận đã thất bại.
Những tuyên bố lặp đi lặp lại về lợi ích giới hạn đi kèm với những đợt
cho phi cơ và chiến hạm tuần tra không ngăn được chương trình xây lên
các đảo nhân tạo của Bắc Kinh, cũng như ý đồ thống trị khu vực về mặt
quân sự.
Khi tìm cách làm giảm nhẹ nguy cơ đối đầu ở từng giai
đoạn, Hoa Kỳ và các đồng minh trên thực tế đã nhường lại việc kiểm soát
khu vực mang tính chiến lược cao độ này cho Trung Quốc, mà tác giả coi
như một tiến trình đầu hàng tiệm tiến. Tiền lệ xấu đã được đặt ra, và
các thông điệp nghèo nàn đã được chuyển đến cộng đồng quốc tế. Tại một
phần của Thái Bình Dương, phe đồng minh đang có nguy cơ bị mất đi vị trí
lâu nay, là đối tác an ninh khả tín.
Tại sao Washington và các
đồng minh chủ chốt lại vụng về như thế ? Tại sao lại mất nhiều thời gian
đến thế để phát triển một chiến lược đối phó hiệu quả với việc Bắc Kinh
bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông ?
Một
phần nguyên nhân là cung cách mà Trung Quốc áp đặt chủ quyền lên 80%
vùng biển chiến lược này. Biển Đông là nơi mà hơn phân nửa trọng tải
hàng hóa thế giới luân chuyển qua đây, là con đường quá cảnh quan trọng
cho quân đội Mỹ và nhiều nước đồng minh, thân hữu.
Hối hả bồi đắp các đảo nhân tạo. |
Trong năm năm
qua, Bắc Kinh đã đặt dấu chân cùng khắp Biển Đông, với việc đào đắp
những đảo nhân tạo mới, xây dựng các cơ sở giám sát, phòng không, chống
hạm, chống các lực lượng tấn công. Chiến dịch của Trung Quốc được tiến
hành một cách khôn khéo, qua một loạt các động thái từ thấp đến cao, mỗi
bước đều dưới cái ngưỡng có thể kích hoạt phản ứng đáp trả mạnh mẽ của
phương Tây. Kết quả là nay Bắc Kinh đã có những thiết trí quan trọng
trên 12 đảo ở Biển Đông, và có sự hiện diện quân đội, tuần duyên, dân
quân biển quy mô nhất trong khu vực.
Trong
số các khả năng quân sự của Trung Quốc, có việc bố trí trên các đảo
nhân tạo các thiết bị giám sát, thu thập thông tin tình báo, các hỏa
tiễn tầm xa diệt phi cơ và diệt hạm, cũng như vô số hệ thống phòng
không. Ba trong số các đảo của Hoàng Sa nằm ở giữa Biển Đông, nay sở hữu
các phi đạo dài đến trên 3.000 mét, quá tiện lợi cho các hoạt động của
Boeing 747. Các nhà vòm kiên cố sắp hoàn thành trên ba đảo này, có thể
chứa được 24 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ ; năng lực bảo trì, các kho
chứa nhiên liệu và các thiết bị hậu cần khác được mở rộng. Các máy bay
cất cánh từ đây có thể bay đến tận Biển Andaman, Bắc Úc và căn cứ Guam
của Mỹ.
Các đảo mới được đào đắp cũng có thể dùng để bố trí nhiều
hỏa tiễn hành trình, hỏa tiễn đạn đạo tầm ngắn và tầm trung, có khả năng
bắn vào các mục tiêu trên mặt đất lẫn các chiến hạm ngoài biển, đến tận
Biển Sulu của Philippines, hay Singapore, Nam Malaysia.
Các hải
cảng xây dựng tại các đảo này có thể tiếp nhiên liệu đầy đủ cho nhiều
chiến hạm, tàu của lực lượng tuần duyên và dân quân biển. Thêm vào đó,
các đảo nhân tạo cũng có thể hỗ trợ cho mạng lưới do thám tàu ngầm trên
khắp Biển Đông, có nghĩa là nâng cao năng lực của Trung Quốc chống lại
các tàu ngầm của phe đồng minh.
Ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang quân sự hóa các đảo chiếm đóng. |
Vì ba đảo mới này không quá nhỏ,
đây sẽ là nơi phân tán hầu hết tài sản của quân đội Trung Quốc trong
trường hợp xung đột, bị các lực lượng đồng minh tấn công. Đá Chữ Thập
(Fiery Cross Reef) nay có kích thước như một căn cứ quân sự trên đất
liền. Đá Xu Bi (Subi Reef) đã lớn hơn đến 50%, có thể so sánh với khu
vực căn cứ hải quân Trân Châu Cảng. Đá Vành Khăn (Mischief Reef) cũng
rộng hơn và có thể tương đương với quận Columbia. Hậu quả là Trung Quốc
có vẻ đang thênh thang trên con đường biến Biển Đông thành con đường
hàng hải nội bộ được vũ trang tận răng.
Hiện nay việc đi qua vô
hại, đặc biệt đối với các tàu buôn, vẫn được tôn trọng. Tuy nhiên Bắc
Kinh nói rõ là các điều kiện dành cho hoạt động của các tàu nước ngoài,
ngay cả các quốc gia duyên hải, sẽ do Bắc Kinh quyết định. Giới chức
liên quan của Trung Quốc cho biết Bắc Kinh đang cân nhắc việc tuyên bố
vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông. Các thiết trí quân sự nay gần
như hoàn tất cho phép lực lượng Trung Quốc thực hiện tuyên bố trên, với
việc cho máy bay chiến đấu lên ngăn chặn những phi cơ không khai báo.
Mặc
dù hầu hết các nhà quan sát quốc tế tin rằng nhiều hành động của Trung
Quốc ở Biển Đông vi phạm nghiêm trọng luật lệ quốc tế, phán quyết của
Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye tháng 7/2016 đã làm rõ mức độ vi
phạm này. Tòa nhất trí rằng yêu sách « quyền lịch sử » mà Bắc Kinh đòi hỏi đối với Biển Đông và các đảo nhân tạo trong phạm vi « đường 9 đoạn » là vô căn cứ.
Khi
đối mặt với yêu sách lãnh thổ và bành trướng quân sự của Trung Quốc
trên Biển Đông, các lãnh đạo đồng minh hầu như luôn đáp trả bằng cách
lặp lại câu thần chú : Chúng tôi có lợi ích quan trọng trong tự do hàng
hải và hàng không, chúng tôi không yêu sách lãnh thổ trong khu vực ;
chúng tôi kêu gọi tất cả các bên kềm chế, giải quyết tranh chấp theo
luật lệ quốc tế. Tàu bè và phi cơ của đồng minh thỉnh thoảng đi qua khu
vực, hiếm khi trực tiếp thách thức yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh. Cách
đáp trả này rõ ràng đã thất bại, không ngăn cản được sự bành trướng lãnh
thổ của Trung Quốc.
Tại sao phương cách của Hoa Kỳ và các đồng
minh thân thiết lại dè dặt và vô hiệu quả như thế ? Theo tác giả, có
nhiều nhân tố tác động đến.
Trước tiên,
nhiều người ở Washington và các thủ đô phương Tây khác nhìn vấn đề Biển
Đông như một vấn đề phức tạp, với những hậu quả nho nhỏ, và tốt nhất
không nên để ý đến. Một số nhà hoạch định chính sách và nhà bình luận
cho rằng không nên gánh lấy nguy cơ đối đầu giữa các cường quốc chỉ vì « một ít đảo đá nằm rải rác » ở một vùng đất xa xôi.
Thứ hai,
tầm quan trọng của chiến lược Biển Đông tương lai đối với các nước đồng
minh và nước đối tác có những khác biệt đáng kể. Quan điểm chung ở
Washington là Biển Đông quan trọng, nhưng không phải sống còn ; chỉ đơn
giản là một trong nhiều khu vực bất ổn mà Hoa Kỳ phải giải quyết. Tokyo,
Seoul và Canberra coi trọng Biển Đông hơn, do giá trị chiến lược nội
tại và tầm quan trọng của nó đối với các đối tác thân thiết, là thành
viên ASEAN nằm cạnh vùng biển này. Đối với các quốc gia ven Biển Đông,
sự cân bằng chiến lược và chủ quyền thực sự của khu vực hết sức quan
trọng cho an ninh của họ trong tương lai, và sức khỏe của nền kinh tế.
Những khác biệt về ưu tiên giữa các đồng minh Tây Thái Bình Dương và
những nước thân hữu gây căng thẳng cho quan hệ đồng minh dài lâu.
Một hạn chế quan trọng thứ ba là từ mô hình đồng minh theo kiểu « trục bánh xe và nan hoa »
tại Tây Thái Bình Dương từ thập niên 50. Các đồng minh trong khu vực
không hợp tác tốt ở vòng ngoài cũng như trong việc phối hợp kế hoạch an
ninh. Những năm gần đây đã có một số tiến bộ trong việc tăng cường phối
trí giữa Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc và vài nước đối tác khác ở Đông Nam Á,
nhưng vẫn còn hạn chế và không thường xuyên. Washington hẳn là có khuyến
khích hợp tác chặt chẽ hơn, nhưng con đường còn rất dài nếu muốn đạt
đến sự phối hợp an ninh thường lệ như ở châu Âu. Một sự hợp tác kịp
thời, hiệu quả để đáp trả các hành động của Bắc Kinh tại Biển Đông,
không phải là điều đơn giản.
Thứ tư,
nhiều công dân, hầu như tất cả các nhà báo và nhiều dân biểu, nghị sĩ có
rất ít thông tin về các hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông, trong
khi Bắc Kinh mở rộng các hoạt động chiến lược trong thập niên vừa qua.
Các cơ quan truyền thông lớn và hãng thông tấn phương Tây cũng chẳng cố
gắng nói lên sự thật về những gì đang xảy ra, hay giải thích về tham
vọng của Bắc Kinh.
Thứ năm, đáp trả một
cách hiệu quả các hoạt động lấn chiếm từng chút một như tằm ăn rỗi của
Trung Quốc trên Biển Đông, về bản chất là rất khó. Bắc Kinh sử dụng một
chiến lược rất tinh tế, có thể hành động mà không thách thức các cam kết
của Hoa Kỳ với đồng minh, hay trực tiếp đối đầu với Mỹ hoặc các lực
lượng đồng minh. Hơn nữa, các lãnh đạo phương Tây có rất nhiều vấn đề
chính trị và hành chính phải giải quyết, khó thể duy trì liên tục sự
quan tâm đến khu vực.
Thứ sáu, nhiều
doanh nhân phương Tây và chính trị gia muốn tránh né các biện pháp có
thể gây trở ngại cho công việc của mình và quan hệ kinh tế với Trung
Quốc. Các quan ngại này có thể thấy rõ nơi các đồng minh Tây Thái Bình
Dương, cũng như các công ty của Mỹ và các nước khác đã đầu tư nhiều vào
việc siết chặt quan hệ với các công ty Trung Quốc. Các hãng tin Trung
Quốc rất tích cực khuếch đại các quan ngại này, tuyên truyền sai lạc về
tình trạng khó xử, thổi phồng hậu quả đối với các nền kinh tế khu vực
trước bất kỳ hành động nào đối phó với sự hung hăng của Bắc Kinh.
Thành công từ các chiến dịch thông tin của Bắc Kinh tại các nước phương Tây là nhân tố thứ bảy khiến
các nước này dè dặt trước các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông.
Các hoạt động này được hỗ trợ bởi việc Trung Quốc mua lại các cơ quan
truyền thông phương Tây, đồng thời khuyến dụ các nhân vật lãnh đạo, nhà
báo, trí thức bằng việc mời sang tham quan Trung Quốc, bao trọn mọi chi
phí. Bên cạnh đó còn đóng góp vào các quỹ quan trọng của các đảng chính
trị, các tổ chức thân Bắc Kinh đủ loại, trong đó có các Viện Khổng tử
tại các trường đại học ; thường xuyên chi tiền để kèm các phụ trang
tuyên truyền trong các nhật báo phát hành tại thủ đô các nước. Đại sứ
quán, lãnh sự quán và các định chế thân Bắc Kinh thường tổ chức các cuộc
biểu tình « ái quốc », chương trình văn nghệ và các sự kiện
khác. Hoạt động tình báo và tin tặc được sử dụng để tăng sức nặng cho
các thông điệp chính thức. Bắc Kinh còn tuyển mộ điệp viên và chuyên gia
vận động hành lang ; hăm dọa, cưỡng bức, ngăn trở những hành động phản
kháng.
Các công cụ tuyên truyền được sử dụng rộng rãi để khẳng định cái gọi là "chủ quyền lịch sử" trên Biển Đông. |
Nhân tố thứ tám là văn hóa. Cử
tri phương Tây có vẻ lo sợ hơn về khả năng kích hoạt xung đột, so với
người Trung Quốc. Huge White, một nhà quan sát nổi tiếng về tình hình
khu vực thậm chí còn biện luận rằng Hoa Kỳ không nên đối đầu với sự bành
trướng của Trung Quốc, trừ phi các nhà lãnh đạo muốn « thuyết phục
đa số người Mỹ rằng nước Mỹ cần phải đối phó với một cuộc chiến tranh
nguyên tử để duy trì vai trò lãnh đạo của Mỹ ở châu Á ».
Theo
tác giả Ross Babbage, các tuyên bố như thế phản ánh những đánh giá sai
lầm về quyền lực của Bắc Kinh vốn chỉ tương đối, những giả định không
đáng tin cậy về việc Bắc Kinh đã sẵn sàng chuẩn bị cho việc sử dụng vũ
khí nguyên tử chống lại Hoa Kỳ. Đồng thời cũng không nhận định đúng mức
tầm vóc của việc hình thành liên minh chiến lược, và rất nhiều khả năng
ngăn chận cuồng vọng của Trung Quốc mà không cần dùng đến biện pháp quân
sự. Trong phần hai « Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh », ông đưa ra những đề nghị cho chính quyền Donald Trump nhằm chặn đứng việc Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.