mardi 2 décembre 2025

Kiều Thị An Giang – Đi qua nỗi buồn để chữa lành chiến tranh

 

Tôi thuộc lớp người sinh ra trong chiến tranh nhưng lại không biết gì mấy về nó. Với tôi, chiến tranh không hẳn là mất mát, mà là những mùa sơ tán đầy dấu ấn. Nhờ thế tôi có một tuổi thơ ở thôn quê - thứ ký ức đẹp đến mức mọi thiếu thốn lại càng khiến nó khắc sâu hơn trong tâm trí lũ trẻ thành phố.

Tôi đọc Nỗi buồn chiến tranh từ khi nó còn là những trang giấy đen nhẻm, lợn cợn bã nứa. Và sau này, tôi nghe nó.

Tôi thường tự hỏi điều gì giữ tôi tỉnh táo qua những đêm làm việc khi cả thế giới đã ngủ. Không phải cà phê. Không phải áp lực. Mà là một giọng đọc trầm, da diết vọng ra từ chiếc máy tính, kể về cuộc đời bị ám của Kiên - nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết không dày nhưng nặng tựa như đá.

Với tôi, đây là cuốn sách hay nhất về chiến tranh mà tôi từng đọc. Không phải vì tầm vóc - mà vì chất văn học mà tác giả đã khai thác - để khắc họa day dứt, ám ảnh tâm lý những con người đi qua cuộc chiến, dù là người lính trực tiếp bắn giết, hay khi họ đã trở về. Hoặc chỉ là người yêu của lính, hay người cha họa sĩ đốt tranh lúc cuối đời…

Mỗi lần đọc lại là một lần văn chương của Bảo Ninh lại mở ra một chiều kích khác. Một lần day dứt thêm một bậc. Cuốn sách không chỉ là sách. Nó là chiếc gương soi vào nỗi đau không gọi tên của một thế hệ. Một vết thương hở của nhân loại, được phơi bày dưới thứ ánh sáng rực rỡ nhưng bi thiết của nghệ thuật.

Nỗi buồn chiến tranh không phải tiểu thuyết chiến tranh theo nghĩa thông thường. Nó là một bản nghiên cứu tâm lý bằng văn chương. Một bản ghi chép về sự sụp đổ của tâm hồn hơn là sụp đổ của chiến tuyến.

Bảo Ninh không kể tuyến tính. Ông dẫn người đọc vào mê cung ký ức : Một dòng chảy ý thức phi tuyến, đan xen liên tục giữa hiện tại câm lặng của Kiên - người làm nghề tầm tang - và quá khứ rừng sâu nơi sự sống lẫn lộn với cái chết. Những sự kiện bị xáo trộn, lặp lại, đôi khi nhập nhòe - y như tâm trí Kiên đã bị chiến tranh bẻ gãy và không bao giờ ráp lại được.

Lời văn giản dị mà bật lên thứ xúc cảm hiếm có : Thơ buồn, thơ gãy, thơ bị chiến tranh nghiền nát rồi bật dậy trong hình hài khác. Chủ đề không nằm ở chiến công, mà ở cái đẹp bị phá vỡ (tình yêu Phương), lý tưởng sụp đổ, và sự cô độc phủ kín đời người sau chiến tranh. Kiên mang về một thân thể sống và một linh hồn còn mắc kẹt giữa rừng già.

Khi nghe những đoạn miêu tả xác chết rữa, những cơn đói dài, hay đoạn chia tay vô định với Phương, tôi nhận ra : Đây không phải câu chuyện danh dự. Đây là câu chuyện về thân phận bị chiến tranh nghiền nát. Và nó chạm vào phần nhân loại nhất trong mỗi chúng ta.

Chính sự chân thực và khác biệt ấy đã khiến cuốn sách trải qua hành trình đầy ồn ào ngay tại quê nhà. Sau khi đoạt giải Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, nó bị phản đối dữ dội. Người ta nói nó “hư cấu”, “bôi nhọ” hình ảnh người lính. Đơn giản vì nó không lãng mạn hóa đau thương. Kết cục, giải thưởng bị thu hồi và tác phẩm bị cuốn vào tranh cãi chính trị kéo dài.

Nhưng đúng kiểu mỉa mai đẹp đẽ của lịch sử, chính thời điểm ấy nó lại được thế giới đón nhận bằng hai tay. Họ không ngần ngại đặt nó ngang hàng với các kiệt tác văn học phản chiến hàng đầu của thế giới như Phía Tây không có gì lạ của Remarque.

Sự thừa nhận vang dội từ nước ngoài, đặc biệt từ những người từng đứng ở chiến tuyến bên kia, đã gián tiếp khẳng định giá trị phổ quát của tác phẩm : Nỗi đau chiến tranh không có ranh giới quốc gia, màu da hay ý thức hệ. Người đọc từ những chiến tuyến đối lập lại nhìn thấy bản thân họ trong Kiên.

Bởi nỗi đau chiến tranh không có biên giới. Không có bên thắng hay thua.

Bảo Ninh : Đi Qua Chiến Tranh Để Tự Chữa Lành

Để viết được những dòng văn như thể "bứt ra từ chính câu chuyện của mình", tác giả phải là người đã thực sự đi qua địa ngục đó.

Bảo Ninh (tên thật là Hoàng Ấu Phương), sinh năm 1952, nhập ngũ năm 17 tuổi và trực tiếp chiến đấu tại chiến trường khốc liệt Quảng Trị. Ông là một trong số rất ít những người may mắn sống sót trở về từ Tiểu đoàn 27. Ông không cần phải tưởng tượng ra chiến tranh ; ông đã sống, thở, và chết đi sống lại trong đó.

Văn chương của Bảo Ninh, vì thế, không chỉ là nghệ thuật, mà còn là một quá trình tự chữa lành, là nỗ lực tuyệt vọng của người sống sót nhằm ghi lại và giải thoát những linh hồn đã khuất và giải thoát chính mình. Ông đã dùng ngòi bút để tìm kiếm và giữ lại những mảnh vỡ của cái đẹp và sự nhân văn trong đống đổ nát, biến nỗi đau cá nhân thành một di sản văn học chung.

Và điều ám ảnh tôi nhất khi nghĩ về Nỗi buồn chiến tranh suốt nhiều năm là : Lẽ ra cuốn sách phải được thừa nhận ở quê hương mình từ rất lâu.

Sự vinh danh và đồng cảm phải đến trước tiên từ chính những người đã trải qua cuộc chiến, từ những người đã thừa hưởng thành quả của nó. Tác phẩm này không hề bôi nhọ. Ngược lại, nó đã làm một việc cao cả hơn bất kỳ sự lãng mạn hóa nào : Nó nhân tính hóa người lính một cách trọn vẹn.

Nó cho phép người lính được yếu đuối, được sợ hãi, được yêu đương, và được đau đớn như một con người. Bằng cách phơi bày sự thật bi kịch của thân phận cá nhân, Bảo Ninh đã củng cố giá trị của hòa bình. Chỉ khi chúng ta đối diện với nỗi buồn chân thật và sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh, chúng ta mới thực sự hiểu được ý nghĩa trọn vẹn của sự hy sinh và trân trọng những gì đang có.

Tôi tin rằng, sau bao nhiêu năm, với sự đón nhận âm thầm của công chúng và sự công nhận quốc tế không thể phủ nhận, tiếng vọng khắc khoải của Kiên và Phương cuối cùng cũng đã vượt qua những rào cản tranh cãi để trở thành một trong những cột mốc không thể phủ nhận của văn học Việt Nam hiện đại. Đó là sự chữa lành cho người viết, và cũng là sự an ủi cho tất cả những người đã từng mang trong mình "nỗi buồn chiến tranh" thầm kín.

KIỀU THỊ AN GIANG 02.12.2025

 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.