Rồi từng người của thế hệ vàng son kiến tạo ra nền văn hóa
vàng son lần lượt ra đi. Quy luật nghiệt ngã của thời gian không ai cưỡng lại
được. Điều đáng tiếc là di sản văn hóa của thế hệ vàng son gần như chỉ được lưu
giữ ở những người thuộc vài thế hệ kế tiếp và giờ ngày càng mờ dần đi theo năm
tháng, trong khi sự đứt gãy văn hóa đã không được tiếp nối bằng những thế hệ
ngang tài và ngang tầm.
Sẽ không bao giờ văn hóa Việt Nam tạo ra được sự rung cảm dữ
dội, và mang lại sự chấn động tâm thức khơi dậy tình người và tình quê hương
như những gì mà thế hệ của những Nguyễn Văn Đông làm được, chừng nào nghệ sĩ
còn quỳ cúi trước mệnh lệnh cung đình và tự do sáng tạo còn chưa được cởi mở.
Dưới đây là một đoạn hồi ký của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông,
chép lại như một cách để tưởng nhớ ông (Nguồn: trang Mượn Dấu Thời Gian)
Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp
Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi
mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn
xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường.
Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã
gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như "Súng Đàn",
"Vui Ra Đi", một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc
Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc “Phiên Gác Đêm Xuân”, “Chiều Mưa Biên
Giới”, “Sắc Hoa Màu Nhớ” được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi
vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời
học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy
ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng
lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười
như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về
Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng
ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp, mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn
lưu lại đến ngày nay.
Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên
là Mộc Hóa, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến
Tường. Đơn vị của tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp Tết
trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành.
Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa, và hoa
sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt.
Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê
Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ
Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn
Tết.
Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký
Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau
ngày đầu năm nhưng quân lệnh phải được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày
Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc
ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương,
cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca "Sắc Hoa Màu
Nhớ".
Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút
giao thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đình.
Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ
nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng
hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc
Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác.
Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào
thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những tràng súng liên thanh
nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn
vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của
tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường,
làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài “Phiên Gác Đêm Xuân”:
“Đón giao thừa một phiên gác đêm
chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngỡ rằng pháo tung bay
ngờ đâu hoa lá rơi…”
chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngỡ rằng pháo tung bay
ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
mơ rằng đây mái nhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương…”
mơ rằng đây mái nhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương…”
Bài “Phiên Gác Đêm Xuân” được ra đời trong hoàn cảnh
như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính
như “Chiều Mưa Biên Giới”, “Mấy Dặm Sơn Khê”, “Sắc Hoa Màu Nhớ”, “Khúc Tình
Ca Hàng Hàng Lớp Lớp”, “Xin Đừng Trách Anh”, “Lá Thư Người Lính Chiến”, “Anh
Trước Tôi Sau”, “Lời Giã Biệt”… v.v. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản
nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.
Vào năm 1960, tôi và người bạn cao niên tên là Huỳnh Văn Tứ,
một nhà doanh nghiệp có tiếng ở Sài Gòn, cùng đứng ra sáng lập hãng dĩa
Continental và Sơn Ca. Ông Huỳnh Văn Tứ phụ trách Giám Đốc Sản Xuất, nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông phụ trách Giám Đốc Nghệ Thuật. Chủ trương của chúng tôi là nhắm
vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ.
Về lãnh vực Tân Nhạc, tôi cho ra đời hàng trăm chương trình
mang dấu ấn của hãng Continental, Sơn Ca, Premier. Chính hãng Continental, Sơn
Ca đã đi tiên phong trong việc thực hiện Album riêng cho từng cá nhân ca sĩ,
như Khánh Ly với Sơn Ca số 7, Lệ Thu với Sơn Ca số 9, Thái Thanh và Ban Hợp Ca
Thăng Long với Sơn Ca số 10 và nhiều Album cho Phương Dung, Thanh Tuyền, Giao
Linh, làm vinh danh những tài năng này ở thập niên 60 và 70.
Riêng về bộ môn Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ, tôi đã thực hiện
hàng trăm chương trình Tân Cổ Giao Duyên và trên 50 vở tuồng cải lương kinh điển
nổi tiếng như “Nửa Đời Hương Phấn”, “Đoạn Tuyệt”, “Tiếng Hạc Trong Trăng”,
“Sân Khấu Về Khuya”, “Mưa Rừng”… v.v
Chính trong thời gian này, tôi tạo thêm hai bút danh nữa là
nhạc sĩ Phượng Linh và soạn giả Đông Phương Tử, nhằm phục vụ cho bộ môn Cải
Lương Sân Khấu và Tân Cổ Giao Duyên. Bút danh Phượng Linh để sáng tác phần nhạc
đệm và bài ca tân nhạc lồng trong các vở tuồng cải lương, phối hợp với giàn cổ
nhạc gồm những danh cầm như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm. Còn bút danh Đông Phương
Tử là soạn các bài tân cổ giao duyên và đạo diễn thâu thanh các vở tuồng cải
lương. Tiếc thay, những công trình tâm huyết đó đã bị gạt ra bên lề xã hội sau
biến cố lịch sử 30 tháng Tư năm 1975.
Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập “cải tạo” 10 năm. Khi trở
về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy
sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng
như ngoài nước. Vào năm 2003, nhà nước Việt Nam có cho phép lưu hành 18 bài hát
của tôi, gồm: “Hải Ngoại Thương Ca”, “Nhớ Một Chiều Xuân”, “Về Mái Nhà Xưa”,
“Khi Đã Yêu”, “Đom Đóm”, “Thầm Kín”, “Vô Thường”, “Niềm Đau Dĩ Vãng”, “Tình Cố
Hương”, “Cay Đắng Tình Đời”, “Tình Đầu Xót Xa”, “Khúc Xuân Ca”, “Kỷ Niệm Vẫn
Xanh”, “Truông Mây”, “Bài Ca Hạnh Phúc”, “Bông Hồng Cài Áo”, “Trái Tim Việt
Nam”, “Núi và Gió”.
Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho
phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt
trong lãnh vực văn hóa, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì có giá trị nghệ
thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tị hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại
vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đã phí phạm
quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!
...
Chị Marie To (Giám đốc Trung tâm Thúy Nga Paris) cho biết
thêm, người đầu tiên thực hiện băng tape thu một giọng hát solo (“Sélection-Tiếng
hát Thái Thanh”) là ông Tô Văn Lai. Trong số các album Sơn Ca do hãng
Continental thực hiện thì: Sơn Ca số 1 đến Sơn Ca số 4 gồm nhiều ca sĩ; Sơn Ca
5 với Phương Dung; Sơn Ca 6 với Giao Linh; Sơn Ca 7 với Khánh Ly; Sơn Ca 8 với
ca sĩ Sơn Ca; Sơn Ca 9 với Lệ Thu; Sơn Ca 10 với Thái Thanh và Ban hợp ca Thăng
Long. Riêng Sơn Ca 11 với Phương Dung chưa kịp phát hành thì xảy ra sự kiện
30-4. Sơn Ca 11 sau đó được ông Huỳnh Văn Tứ mang sang Paris, đưa băng master
cho ông Tô Văn Lai làm lại và in vào cassette tape đầu thập niên 1980.
FB MẠNH KIM 27.02.2018
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.