(Viết gửi "trùm cuối")
Phố của tôi ngày đó
Góc đường
Rào thép gai giăng ngang nằm tê tái
Cành hoa hồng đêm qua ai để lại
Chưa kịp khô
Bên gai nhọn khẽ cười
(Viết gửi "trùm cuối")
Phố của tôi ngày đó
Góc đường
Rào thép gai giăng ngang nằm tê tái
Cành hoa hồng đêm qua ai để lại
Chưa kịp khô
Bên gai nhọn khẽ cười
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Đô la găm một túi đầy,
Đã đêm Việt Á lại ngày vaccine
Con nai vàng ngơ ngác
Trong rừng thu
Con nai vàng văn chương ấy
Đã về đâu
Hay vẫn đạp lá vàng khô trong cánh rừng chữ nghĩa mịt mù
*
Những con nai của người tử tù
Được làm từ sợi ni-lông hy vọng
Cần mẫn từng ngày đan bằng tăm
Con nai đen, con nai trắng, con nai hồng
Cựu thư ký thứ trưởng Y tế Phạm Trung Kiên - chung thân:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá tiền vòi: chung thân”
Cựu cục trưởng Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao Nguyễn Thị Hương Lan - chung thân:
Đầu thập niên 80 sau khi ở quân lao H39 ra, tôi lang thang cùng Sáu Nhiệm, Ba Minh, Tư Thuyết thì gặp Tám Lam tại quán cà phê vỉa hè trên đường Duy Tân (tức Phạm Ngọc Thạch bây giờ).
Cũng cần nói Tám Lam là bí danh của Hạ Đình Nguyên, một ông anh thời hoạt động phong trào của tôi. Tuy mang tiếng “ông anh” nhưng cả Tám Lam, Sáu Nhiệm, Ba Minh và Tư Thuyết đều coi tôi như bạn.
Cũng cần nói tiếp trước 75 tôi tham gia cách mạng với bí danh là Hai Long và chuyện tham gia này thì “hồn ai nấy giữ, mạnh ai nấy biết”. Mấy ông anh chỉ cần biết tôi là Bùi Chí Vinh, thi sĩ của Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn, Biên Tập Viên trang Văn Nghệ đầu tiên của báo Tuổi Trẻ, tình nguyện đi bộ đội năm 1978, chống lại bọn chỉ huy đặc công thủy D3 E 10 Rừng Sát, bị chụp mũ “mưu sát cán bộ, cướp đoạt chính quyền” và bị biệt giam ở quân lao Bộ Tư Lệnh Thành.
Cuộc sống đổi thay trong chớp mắt
Trước kia con gái vốn ngoan hiền
Sau 75 nữ sinh thành giặc
Tuổi học trò vô lớp ngã nghiêng
Cách ly ly cách hề ly cách
Người em xóm trọ khóc buồn tênh
Xưa kẻ sang Tần mơ thích khách
Dịch thủy dòng sâu lạnh nỗi niềm.
Tháng 06/1993 gia đình tôi đến Mỹ theo diện HO 17. Cuối năm 1998 vợ chồng tôi mua một căn nhà trả góp ở trong xóm này.
Đối diện nhà tôi bên kia đường là nhà của ông Ike. Mỗi khi đi làm về tôi đều thấy ông Ike ngồi trước cửa, và chúng tôi chào hỏi xã giao như vậy trong nhiều năm. Cho đến một bữa cuối tuần ông Ike thấy tôi mặc quân phục sau khi đi dự buổi tưởng niệm tháng Tư về, ông ấy ngạc nhiên hỏi và tôi trả lời. Thế là phát giác ra chúng tôi đều cùng là cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam.
Để đánh dấu cái cơ duyên bất ngờ này, hai tên khác màu da vô nhà xách bia ra cụng sau đó chụp hình. Hình mà quý bạn thấy là tôi và ông Ike chụp trước nhà sau khi cụng vài chai nên tên nào cũng xấu ìn.
Sáng nay mưa xuống âm thầm quá
Thấy một mùa sau lãnh cảm rồi
Thấy lắm tương tàn trong Việt tộc
Giữa những bàn tay đẫm máu tươi.
Được bắt tay Zelensky
Là một điều vinh dự
Chỉ cần một giây bắt tay với người hùng cảm tử
Còn hơn sống trăm năm trong nhung lụa tầm thường
Ta tham gia cách mạng năm 15 tuổi
Không hề biết Việt Cộng là gì
Chỉ biết trái tim nồng nàn tình yêu nước
Chưa xuống đường là chân đã muốn đi
1.
VĨ TUYẾN
Nếu hiệp định Geneve không chốt kèo ngay vĩ tuyến 17
Mà kéo vào vĩ tuyến 16 đèo Hải Vân
Những ông cậu tôi có thể đã là liệt sĩ
Không phải là tử sĩ phía bên kia xao xác mộ phần
Xin giới thiệu ba bài thơ đầy hào khí của nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương, nguyên thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Sư đoàn 18 BB, người trực tiếp dự trận Xuân Lộc (TM).
THÁNG TƯ, LÍNH KHÔNG CẦN HỚT TÓC
Tháng Tư, lính không cần hớt tóc
Tóc dài cứ để tóc dài thêm,
Giáp trận, chẳng ai cần nón sắt
Đầu trần, tóc dựng, mắt trừng lên.
Tôi muốn chìm vào trong lãng quên
Nhớ chuyện xưa chi lắm ưu phiền
Ngàn năm quên lãng ngày tăm tối
Sao vẫn trong lòng chẳng ngủ yên
30 tháng Tư nóng như lửa
Cởi trần mà cũng rịn mồ hôi
Truyền hình giống như con chó sủa
Những tiếng tru chưa thấy luân hồi
ta mang tuổi hai mươi vào rừng tám năm
bốn năm những vùng kinh tế mới
ba năm lòng hồ Dầu Tiếng
một năm chiến trường biên giới K máu và không chắc còn nước mắt
trả xong món nợ lý lịch dù không con sĩ quan
dù không nhà địa chủ
tháng tư.
ra chợ mua bông.
một bó cho chồng một bó cho cha.
đường bay gãy gánh sơn hà.
áo người thiếu phụ viền tà đợi trông.
Đại tá Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Công Vĩnh
Trước 1975 là một con người
Dự tiệc cùng vợ chồng Tổng Thống
Không khoảng cách nào giữa vua chúa bầy tôi
Ở Việt Nam, người đầu tiên giới thiệu thi pháp của Roman Jakobson là nhà phê bình Đặng Tiến ở Paris, với loạt bài về thơ và thi pháp của Roman Jakobson đăng vào năm 1973 trên Tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng.
Năm ấy, sau khi đọc những bài viết của nhà phê bình Đặng Tiến về thi pháp của Roman Jakobson, mình đã vào thư viện Trung tâm Văn hóa Pháp ở Sài gòn mượn đọc cuốn “Questions de poétique” của Roman Jakobson, rồi sau tháng Tư năm 1975 trao đổi với một giáo sư đại học hai cuốn sách về Tư Mã Thiên để lấy bốn cuốn sách của Roman Jakobson.
Mấy năm nay mình hay đăng bài về Roman Jakobson và anh Đặng Tiến vì trong tâm tưởng của mình, hai cái tên Jakobson và Đặng Tiến gắn liền với nhau, là hai người viết về thơ hay nhất. Một người bạn mới cho hay anh Đặng Tiến phải nhập viện để chữa bệnh từ mấy tuần nay và mới vừa từ trần sáng nay (thứ Hai 17.04.2023). Độc giả của anh 50 năm về trước xin vĩnh biệt anh và xin chia buồn với gia đình anh.
Ông ra đi lúc 8 giờ sáng nay (giờ Paris) tại Orleans!
Xin chân thành chia buồn với chị và gia quyến. Xin thắp một nén tâm hương cầu nguyện cho hương linh ông siêu thăng!
Không quên những ngày đầu gặp anh ở Paris trong chuyến sang Pháp lần đầu năm 2000. Anh đến thăm mình ở chỗ trọ để đưa đi chơi, vội quá, đỗ xe sai chỗ, bị phạt! Anh tổ chức cho mình nói chuyện về dịch thơ Apollinaire ở lớp Việt Nam học Đại học Paris 7.