KỲ XI - TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU VỚI KHU DINH ĐIỀN CÁI SẮN
Từ ngàn xưa, Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, công khai phá của cha ông là những nỗ lực không ngừng nghỉ. Để đến thế kỷ XX, nhiều vùng trên lãnh thổ, ruộng đất “cò bay thẳng cánh”, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội nan giải.
Trong lúc tại miền Bắc, do kết quả sự phân chia ruộng đất trải qua nhiều thế hệ, đất trở nên manh mún, các bờ đê phân chia những mảnh ruộng chi chít chiếm mất một diện tích khả canh rất lớn. Thì tại miền Nam, do hậu quả của chính sách thực dân, đất đai thường rơi vào tay một thiểu số đại điền chủ sở hữu hàng ngàn hecta (hectare: mẫu tây), với số người làm công hay thuê mướn thật lớn.
Đến nửa sau thế kỷ XX, nhu cầu tái phân của cải trong cộng đồng dân tộc, tiêu biểu là ruộng đất, trở nên cấp thiết và được các chính quyền kế tiếp nhau tại hai miền Nam-Bắc thực hiện. Cuộc cải cách ruộng đất (CCRĐ) tại miền Bắc vào những năm đầu thập niên 1950 mang màu sắc cực đoan, dư âm còn vang vọng đến bây giờ.
Ở miền Nam, chính sách này được áp dụng một cách mềm dẻo hơn. Dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, Dụ số 57 ngày 22.10.1956 là văn kiện căn bản về CCRĐ, theo đó, “Mỗi điền chủ chỉ được quyền giữ tối đa 100 hecta ruộng, trong số nầy 30 hecta được phép trực canh, còn 70 hecta phải cho tá điền thuê theo đúng quy chế tá canh.
Ðiền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thường thiệt hại: 10 % trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3 % mỗi năm. Ruộng bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi gia đình được quyền mua lại tối đa 5 hecta và phải trả cho nhà nước trong vòng 12 năm. Giá tiền bán bằng với giá chính phủ trả cho chủ điền... “
(Theo trang Sài Gòn Trong Tim Tôi, trích bài viết của Nguyễn Quang Duy (Úc – 25.09.2014), có tham khảo tác phẩm Chánh sách Ruộng Đất ở Việt Nam 1954-1995 của Lâm Thanh Liêm - NXB Đường Mới, Paris 1996).
Trong nền Đệ nhị Cộng hòa, tháng 3.1970, Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa thông qua đạo luật Người Cày Có Ruộng (NCCR), được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký ban hành ngày 26.03.1970. Theo đó, “mỗi tá điền được phát 3 hecta ở Nam phần hay 1 hecta ở Trung phần. Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 hecta.
Đất truất hữu được trả 20 % bằng hiện kim và 80 % bằng công khố phiếu với 10 % lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó. Trong vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770.105 mẫu” (Sài Gòn trong tim tôi – Tlđd).
Các quy định hợp tình, hợp lý của luật NCCR đã không vấp phải phản ứng đáng kể nào của giới điền chủ.
Một buổi sáng, khoảng tháng 6.1970, Ban Viễn thông Quận đến báo là Phó Tỉnh trưởng LVH cần nói chuyện với Phó Quận trưởng Kiên Tân qua hệ thống máy của ngành viễn thông (thuộc Bộ Nội Vụ). Vào thời điểm đó, hệ thống điện thoại hữu tuyến chưa xuống đến cấp quận, mọi liên lạc phải nhờ ở ngành vô tuyến viễn thông.
Mình xuống Ban Viễn thông thì nghe tiếng của ông Phó Tỉnh trưởng:
- Chỗ của anh có nơi nào chứa được nhiều người không?
- Khoảng bao nhiêu người, ông Phó?
- Khoảng vài trăm đến cả ngàn người!
- Hồi ông (Nguyễn Cao) Kỳ xuống cách nay mấy năm thì mượn Đài Đức Mẹ của cha Hạnh làm nơi hành lễ.
- Lần này cũng sêm sêm như vậy!
Câu chuyện tạm kết thúc ở đó, song mọi người nhanh chóng nhận biết tin Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ xuống tỉnh Kiên Giang cấp phát chứng khoán NCCR cho một số nông dân tiêu biểu, và khu định cư Cái Sắn chính là nơi phù hợp nhất cho cuộc lễ này.
Cha Hạnh (tên đã được đổi khác) là chủ nhân của một khu đất rộng lớn nằm sát cạnh liên tỉnh lộ, chỉ cách quận lỵ Kiên Tân một, hai trăm mét. Nhà thờ của cha nằm sâu bên trong, bên ngoài là pho tượng Đức Mẹ to lớn, có bệ cao, nên gọi là Đài Đức Mẹ. Đài ở giữa một khu đất rất rộng, đủ chỗ chứa hàng ngàn người dự lễ. Khi được chính quyền quận ngỏ ý mượn Đài Đức Mẹ để tổ chức lễ, cha Hạnh vui vẻ nhận lời.
Sáng hôm ấy, Trung tá Tô Văn Vân, Tỉnh trưởng Kiên Giang, đi xe từ tỉnh lỵ xuống thẳng Đài Đức Mẹ, nơi dự định tổ chức lễ cấp phát chứng khoán NCCR cho dân do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân chủ tọa. Tất nhiên, Quận trưởng, Phó Quận trưởng đã đến diện kiến ông Tỉnh trưởng tại đây để nhận lệnh. Khoảng 15-20 phút sau, đã nghe tiếng máy bay trực thăng quần đảo trên bầu trời rồi từ từ đáp xuống Đài Đức Mẹ. Từ trên máy bay bước xuống là một quân nhân với bộ quân phục thẳng thớm, mang kính trắng, trên chiếc mũ lưỡi trai và hai ve áo có hai ngôi sao trắng lấp lánh. Ông cặp trong nách một cây can (gậy) chỉ huy.
Đó là Thiếu tướng NVN, Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh thuộc Quân đoàn 4, con rể của đôi vợ chồng nhà báo nổi tiếng tại miền Nam từ thập niên 1930. Hình như trong suốt buổi tiếp xúc tại khoảng trống bao la của Đài Đức Mẹ, không ai thấy vị tướng này cười! Ông say sưa chỉ đạo cho Trung tá Vân, tay vung can chỉ chỗ này, chỗ kia trong Đài Đức Mẹ.
Khi viên tướng vừa đến thì chủ nhân của Đài Đức Mẹ là cha Hạnh, trong bộ áo chùng đen còn tươi mới, đã vội vã ra chào. Tướng N. nhìn cha bằng một con mắt ơ hờ! Trong sự bàn bạc sôi nổi giữa viên tướng và ông Tỉnh trưởng, có lần cha H đứng gần đó đã góp một vài ý về cuộc hành lễ, song lạ lùng thay, ông tướng có vẻ như không hề để tâm chút nào đến lời đóng góp của vị chủ nhân Đài Đức Mẹ, tiếp tục chỉ đạo này nọ cho Trung tá Vân. Lúc ấy, anh Phó Quận trưởng trẻ tuổi cũng đứng không xa nhóm người này, cảm thấy khá ngạc nhiên về cung cách hành xử của vị tướng, và nhanh chóng nhìn thấy nét mặt sa sầm của cha Hạnh. Đó là phản ứng khó tránh của cảm giác bị tổn thương.
Khi câu chuyện bàn bạc kết thúc, cũng không thèm để ý gì đến vị linh mục chủ nhân Đài Đức Mẹ còn đứng đó, viên tướng hối hả lên trực thăng bay vào kinh 1, vào nơi ở của cha Phúc. Có lẽ ông ta được lệnh của Tư lệnh Vùng vào đó để duyệt xem địa điểm có thể là nơi Tổng thống Thiệu dùng cơm trưa sau khi buổi cấp phát chứng khoán NCCR đã kết thúc. Trực thăng không có nhiều chỗ, chỉ mỗi ông Tỉnh trưởng được tháp tùng, ông Quận trưởng Huỳnh Đầm Sắn cùng gã Phó Quận đứng lơ ngơ tại chỗ.
Và như một điều dễ dàng tiên đoán được, gương mặt vui vẻ, hiền lành ngày nào của cha Hạnh bỗng nhiên thay đổi hẳn. Ông cũng không bận tâm đến việc giữ ý với hai viên chức cầm đầu chính quyền quận mà ông vẫn luôn tỏ ra lịch sự. Ông nhìn thẳng vào hai chúng tôi, phán một câu chắc nịch:
- Từ ngày mai, tôi sẽ đóng cửa Đài Đức Mẹ, không ai được vào đây cả!
Trong tình thế đó, kéo dài thêm câu chuyện sẽ trở nên lạc lõng và vô ích. Biết vậy, ông Quận Sắn và tôi nói vài ba câu chẳng ăn nhập vào đâu hết để có cớ rút lui, về tìm phương cách chữa cháy. Tất nhiên, cách hay nhất là ông Quận gọi điện ngay cho ông Tỉnh trưởng, báo cáo lại tình hình nan giải đang gặp phải.
Không biết ông Tỉnh trưởng Kiên Giang, Trung tá TVV, đã thuyết phục cha Hạnh, chủ nhân Đài Đức Mẹ như thế nào mà mấy ngày sau, cơn giận của cha đã nguôi, mọi việc được tiến hành suôn sẻ như đã dự tính.
Ngày 26.6 năm 1970, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã đến Đài Đức Mẹ tại quận Kiên Tân chủ tọa lễ cấp phát chứng khoán NCCR cho một số nông dân tiêu biểu tại khu dinh điền Cái Sắn, trong một không khí nồng nhiệt và trật tự. Xong buổi lễ, ông muốn lên trực thăng về ngay, song Cha Phúc nằn nì ông vào kinh 1 dự bữa tiệc đã chuẩn bị sẵn nên ông đã trì hoãn chuyến trở về Sài Gòn để thỏa mãn lời yêu cầu của cha.
Sau chuyện chứng khoán NCCR không lâu, một vụ rắc rối khác xuất hiện. Ai đó đã gửi hồ sơ lên Tòa án quân sự, tố cáo những việc đã làm của Thiếu tá Phạm Văn Huynh, cựu Quận trưởng Kiên Tân, người tiền nhiệm của Đại úy Huỳnh Đầm Sắn. Có lẽ nội dung tố cáo tương tự với những gì mình đã kể ở trên, những chi tiết góp phần đưa ông Huynh ra khỏi quận Kiên Tân trong 24 tiếng đồng hồ.
Cơ quan thụ lý vụ việc trên là Đại đội Quân cảnh tư pháp (QCTP) Vùng 4 chiến thuật, trụ sở đặt tại Long Xuyên (An Giang). Thời đó tại mỗi Tỉnh/Tiểu khu chỉ có một Tiểu đội QCTP, cấp Đại đội thụ lý các vấn đề hình sự liên quan đến quân nhân trong phạm vi một vùng. Tất cả những viên chức xã liên quan đến việc nộp tiền cho Quận chi tiêu, cấp phát trích lục hộ tịch không ra biên lai để trừ nợ quận, và nhiều người khác, trong đo có tôi, đều được mời đến Long Xuyên để lập biên bản khai trình.
Chuyện không có gì trầm trọng, song nó cũng làm cho mình cảm thấy khó chịu. Thêm một chuyện, đó là mối quan hệ giữa các anh em cùng xuất thân từ một trường đào tạo công chức (Học viện Quốc gia Hành chánh), đang làm việc chung với nhau tại một địa phương, cũng có những điều không mang lại sự thoải mái cho nhau.
Một buổi sáng, trong đống công văn Quận nhận được, tôi đọc thấy một công điện, nội dung đại khái như sau: “Hân hạnh thông báo quý quận, Thủ tướng chánh phủ sẽ ban hành sắc lệnh thiết lập chức vụ Phụ tá Hành chánh tại Cơ sở Hành chánh Côn Sơn, Bộ Nội Vụ cần một công chức ngạch Đốc sự tình nguyện ra Côn Sơn giữ chức vụ đó”.
Sau khi suy nghĩ khoảng 15 phút, tôi tự tay thảo công điện trả lời: “TTKT (trân trọng kính trình) quý tỉnh: Ông LVC, Phó Quận trưởng Kiên Tân, tình nguyện ra Côn Sơn để giữ chức vụ Phụ tá Hành chánh tại đây”.
Nhận được công điện, bạn Nguyễn Minh Bạch, Chánh văn phòng Tòa HC tỉnh nhắn vào: “Mày có chuyện gì buồn, cho anh em biết để giải quyết, sao lại tình nguyện ra Côn Sơn?”.
Trả lời: Chuyện đó nói sau, cứ báo về Bộ Nội Vụ cho tao!
Hai ngày sau, còn xách xe ra tỉnh để “kiểm tra” xem Bạch đã gửi công điện về Bộ chưa.
Về sau mới biết rằng, từ thông báo của Bộ Nội Vụ gửi đi các tỉnh, có đến hàng chục người tình nguyện ra Côn Sơn, song không rõ do những tiêu chuẩn nào mà mình lại được chọn. Âu cũng là số mệnh!
Qua năm sau (1971), ông Quận Sắn còn tiếp tục ở lại Kiên Tân, có nhắn ra Côn Đảo, cho biết là Tòa án quân sự có giấy triệu tập mình ra trước một phiên xử với tư cách nhân chứng, song chính quyền quận và tỉnh đã trả lời rằng “đương sự đã rời khỏi tỉnh từ năm 1970”, nên họ vẫn tiến hành phiên xét xử. Nghe đâu, với bị cáo chính là Thiếu tá Huynh, cũng chỉ là một bản án tù treo hay mấy mươi ngày trọng cấm gì đó.
Riêng về cha Phúc, nhân vật quan trọng trong hồi ức này, thì sau tháng 4.1975, ông bị bắt và giam tại trại giam tỉnh, chung với ông Tỉnh trưởng Kiên Giang là Trung tá VVT, nhiều Quận trưởng, sĩ quan, viên chức trong tỉnh. Không lâu sau, ông bị đưa về Sài Gòn, giam tại trại Chí Hòa. Ông mất một thời gian ngắn khoảng cuối thập niên 1970, sau khi được thả về.
Với tác giả loạt bài viết này, sau hai năm ở một nơi mà người dân có hai đồng thì một đồng mua giấy làm đơn, mình lại kéo dài thêm thời tuổi trẻ ở Côn Đảo, một nơi mà sau 1975, nhiều cây bút gọi là “địa ngục trần gian”. Hồi ức về cái “địa ngục” đó cũng đã được mình kể lại với sự trung thực cần thiết của một nhân chứng, trong loạt bài 7 kỳ.
HẾT
LÊ NGUYỄN 17.11.2024
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.